Tuesday, February 27, 2007

Vĩnh biệt vị trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập

Bai viet duoc lay tu bao TuoitreOnline, at URL
===================================================================
Phóng Sự - Ký Sự
Chủ Nhật, 25/02/2007, 11:40 (GMT+7)

Vĩnh biệt vị trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập

Lễ đài độc lập dựng giữa quảng trường Ba Đình, có công rất lớn của nhà tổ chức Nguyễn Hữu Đang. Ảnh: TƯ LIỆU

Nguyễn Hữu Đang – vị cách mạng lão thành - đã mất vào ngày 8-2, thọ 94 tuổi. Ông là người hoạt động cách mạng, nhà báo, nhà truyền bá quốc ngữ nổi tiếng, có cuộc đời long đong...

>> Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập

Cụ Mười Hương tuổi đã ngoại tám mươi, từng làm trưởng Ban Nội chính Trung ương xúc động nói với tôi giọng nghẹn ngào: “Cứ mỗi lần nhìn tấm ảnh lễ đài Độc lập dựng ở giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, tôi lại thương anh Đang. Lần này ra Hà Nội dự kỷ niệm thành lập Đảng và tưởng niệm anh Trường Chinh, tôi cũng có ý định cùng mấy vị lão thành ở ngoài này lo đề nghị trên tặng một tấm huân chương cho anh Đang. Vậy mà... anh ấy lại đi mất”. Những người dự đám tang cụ Nguyễn Hữu Đang đều thấy cụ Mười Hương có mặt suốt từ đầu cho đến khi ra đài hóa thân hoàn vũ.

Trong đám tang, người ta cũng loáng thoáng nghe thấy câu chữ “Nhân văn giai phẩm”. Khi gặp tôi, cụ Mười Hương nói rằng lúc xảy ra “việc đó” cụ đang ở chiến trường miền Nam, nghe tin từ ngoài vào, chuyện khác thì không bình luận nhưng riêng cái chi tiết Nguyễn Hữu Đang bị gián điệp lung lạc thì cụ không tin: “Anh Đang là người sống chung thủy và nghiêm túc lắm”.

Người được Bác Hồ trực tiếp giao nhiệm vụ

- Cách đây không lâu, người ta đã công bố trên báo chí một đoạn hồi ức của cụ Đang về mối tình duy nhất và cũng là cuối cùng cách đây đã sáu mươi năm nhưng không thành, cho đến hôm nay cụ đã mang theo xuống tuyền đài. Đó chính là thời điểm chàng trai Nguyễn Hữu Đang mới 32 tuổi, đã được Bác Hồ trực tiếp giao trách nhiệm làm người đứng ra lo tổ chức ngày Lễ Độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Cụ Mười Hương kể lại rằng, ngay sau khi Thường vụ Trung ương họp để thông qua văn bản Tuyên ngôn Độc lập do Bác trực tiếp soạn thảo và quyết định sẽ chọn ngày công bố vào chủ nhật, 2-9-1945, Tổng Bí thư Trường Chinh đã gặp cụ để trao đổi về việc làm sao có thể kịp tổ chức đúng thời điểm tuyên ngôn độc lập mà chính Bác Hồ đã ấn định, vì không thể chậm hơn trong cuộc chạy đua thời gian với những diễn biến của thời cuộc.

Là người hoạt động trong giới trí thức và thanh niên ở Hà Nội, chính cụ Mười Hương là người gợi ý giao việc này cho Nguyễn Hữu Đang, lúc đó là thủ lĩnh của hai phong trào đang có ảnh hưởng trong quần chúng và trí thức là Truyền bá Quốc ngữ và Văn hóa Cứu quốc. Tổng Bí thư Trường Chinh thì biết quá rõ Nguyễn Hữu Đang, một cây bút quen biết trên các tờ Thời Báo, Ngày Mới. Đời Nay thời Mặt trận Bình dân, còn cả hai phong trào trên thì Tổng Bí thư lại chính là người trực tiếp chỉ đạo cuộc vận động văn hóa và lực lượng trí thức chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa tháng 8-1945.

Hơn thế, ngay tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, Nguyễn Hữu Đang, người đã vào Đảng từ năm 1943 nhưng tham gia tổ chức học sinh của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí ở Thái Bình từ năm 16 tuổi (1929), đã được bầu vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Vì thế mà đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho Nguyễn Hữu Đang lo liệu công tác tổ chức ngày Lễ Độc lập với một mệnh lệnh: “Đây là sự kiện lịch sử lớn kết thúc Cách mạng Tháng Tám và khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” kèm theo một lời khích lệ đầy tin tưởng: “Việc khó mới giao cho chú!”.

Là người có kinh nghiệm vận động quần chúng và trưởng thành từ thực tế phong trào Truyền bá Quốc ngữ, Nguyễn Hữu Đang đã nhanh chóng tập hợp được nhân tài vật lực từ các kiến trúc sư vẽ kiểu đến người thợ mộc trực tiếp thi công, từ các nhà công thương hiến tặng vật liệu đến nhà kỹ thuật cung cấp và lắp đặt các thiết bị phóng thanh... để đúng ngày giờ ấn định, lễ đài Độc lập đã sừng sững uy nghi giữa Quảng trường Ba Đình, nhanh chóng và trật tự tập hợp hàng chục vạn người dân để buổi lễ diễn ra một cách trọng thể, an toàn và đầy khí thế của một cuộc cách mạng toàn dân.

Từ trên lễ đài ấy, Cụ Chủ tịch nước tuyên bố nền độc lập dân tộc cùng sự ra đời của chính thể Dân chủ - Cộng hòa đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Và cũng từ lễ đài ấy, chiếc ấn vàng và cây kiếm tượng trưng của chế độ quân chủ Việt Nam đã được trưng ra trước quốc dân đồng bào, cáo chung cho triều đại phong kiến cuối cùng...

Buổi lễ để lại một ấn tượng mạnh mẽ đối với những vị khách nước ngoài có mặt khi đó là các sĩ quan trong đơn vị Tình báo Chiến lược (OSS) của Hoa Kỳ. Trong hồi ức của mình, A. Patti, viên thiếu tá chỉ huy trưởng OSS, đã phải thốt lên lời nhận xét về tính tổ chức cao của những người cách mạng Việt Nam, cùng sức hưởng ứng mãnh liệt của cả một dân tộc thể hiện qua buổi lễ lịch sử. Duy có một chi tiết chưa hoàn hảo, đó là kế hoạch truyền thanh trực tiếp buổi lễ tại Quảng trường Ba Đình để phát trên sóng Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam đã bị trục trặc, khiến cuộc mít tinh diễn ra đồng thời tại Quảng trường Norodom tại TP Sài Gòn đã không nghe được lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập qua làn sóng điện.

Nửa thế kỷ sau, tôi chứng kiến lần GS Trần Văn Giàu ra thăm Hà Nội gặp Nguyễn Hữu Đang tại một sinh hoạt của Hội Sử học Việt Nam. Cụ Giàu lớn tiếng hỏi cụ Đang: “50 năm nay tôi mới gặp để hỏi ông một câu: Tại sao hôm đó ông đã thông báo sẽ truyền thanh trực tiếp từ Ba Đình, Hà Nội mà ở Sài Gòn bắt mãi không thấy sóng khiến tôi phải đứng lên hiệu triệu đồng bào. May mà đến hôm sau mới nhận được nội dung Tuyên ngôn, soi lại thấy mình nói không sai với tinh thần của Bác và Trung ương ngoài ấy?!”.

Cụ Đang chưa kịp trả lời thì cụ Nguyễn Văn Dực, con trai của học giả nổi tiếng Nguyễn Văn Vĩnh, người phụ trách thiết bị âm thanh và phát thanh hôm đó, đỡ lời: “Thưa cụ Chủ tịch Ủy ban Lâm thời Hành chính Nam Bộ, lý do là bị trục trặc kỹ thuật, thiết bị thì cũ kỹ, đài phát sóng ở Bạch Mai mới tiếp quản, và cũng không loại trừ là có kẻ phá hoại ngầm. Hôm nay chúng tôi có lời xin lỗi cụ ạ”.

Mối tình duy nhất

Sau Ngày Độc lập, Chính phủ chính thức thành lập, Nguyễn Hữu Đang được bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ Thanh niên rồi thứ trưởng Bộ Thông tin Tuyên truyền... Sinh năm 1913, năm Độc lập 1945, Nguyễn Hữu Đang 32 tuổi, lần đầu tiên có được một ý trung nhân. Đó là một thiếu nữ con nhà trung lưu tên là Huyền Nhiên. Không khí chính trị phả ngay vào đời sống thường nhật của mọi người dân khiến cô gái nhà gia giáo ấy, chỉ thách người đàn ông của mình một điều kiện, nếu làm được sẽ coi như là đã đính hôn. Điều kiện ấy là cho cô được diện kiến Cụ Chủ tịch.

Chàng trai từng làm trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập và đang làm thứ trưởng Bộ Thông tin bèn thiết kế cơ hội để làm đẹp lòng người đẹp. Nhân dịp lễ phát động cuộc vận động ủng hộ áo ấm cho “Mùa đông binh sĩ”, người bạn gái của vị thứ trưởng được bố trí làm tiếp tân để mang tấm áo tượng trưng do một doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang lên tặng Cụ Chủ tịch. Cô gái không những được lại gần để trao áo cho Cụ Hồ mà còn được Cụ Chủ tịch ban những lời động viên sâu sắc về địa vị của người phụ nữ trong cách mạng và trong xã hội mới...

Chiến tranh, rồi cuộc kháng chiến 9 năm, khiến cuộc hôn nhân không thành và hai người sống cách xa nhau, nhưng lời hẹn ước thì không ai đơn sai. Ngày kháng chiến thành công trở về với thủ đô giải phóng, cuộc sống bề bộn cùng những thách đố của lịch sử khiến hai người chưa kịp gặp lại nhau thì đã phải mãi xa cách.

Cụ Đang không kể thêm về cuộc đời tiếp theo của người bạn gái nhưng những gì đến với cụ ở tuổi “tứ thập nhi bất hoặc” rồi “ngũ thập tri thiên mệnh”... nên cuộc sống độc thân là điều không thể lựa chọn... Cho đến cuối đời, khi đã vượt quá tuổi “cổ lai hy” hai giáp, mối tình ấy vẫn là một ký ức đẹp nhất của cuộc đời Nguyễn Hữu Đang.

“Sống thêm"

Năm 1992, có một kỷ niệm đọng lại sâu sắc trong cụ. Tháng 11 năm đó, đông đảo anh chị em văn nghệ sĩ đã tổ chức thượng thọ 80 cho Nguyễn Hữu Đang tại căn phòng mới mà cụ được cấp. Cụ coi đó là cái mốc mà cuộc sống tiếp theo được coi là “thời gian sống thêm” với một quan niệm rất nhân bản: “Cầu sự bình yên trong cảnh thanh bần, tìm an ủi trong tình cảm của những người thân quen, hưởng thú vui thái độ SỐNG ĐỂ XEM” (ba chữ cuối cụ viết hoa).

Như thế là Nguyễn Hữu Đang đã có 15 năm “sống thêm”. Những năm tháng đó ngày càng có nhiều người đến thăm cụ, các phóng viên tìm đến ghi chép lại một vài sự kiện lớn mà cụ đã can dự như phong trào Truyền bá Quốc ngữ, Ngày Độc lập. Một số đoạn hồi ức của cụ đã lên mặt báo. Phùng Quán đã viết những bài báo về những ngày khó khăn của cụ. Một số nhà lãnh đạo cũng quan tâm đến những chính sách đối với cụ...

Hẳn trong “thời gian sống thêm” ấy, Nguyễn Hữu Đang đã sống và xem được nhiều điều. Cụ thường ngồi im lặng rất lâu với nụ cười bình thản trên môi và ngày càng ít nói... Duy trong tầm mắt cụ luôn hướng về tấm ảnh nhỏ chụp chân dung của cụ. Ánh mắt da diết ngỡ người ngoài tưởng cụ đang say sưa soi bóng mình. Chỉ những người thân mới biết rằng lồng bên trong là tấm ảnh người phụ nữ đầu tiên và có lẽ cũng là cuối cùng trong cuộc đời của Nguyễn Hữu Đang...

"Việc khó mới giao cho chú”

Một tháng trước ngày cụ mất, tôi có mặt trong cuộc hội ngộ của ba con người mà một thời số phận đã gắn kết họ với nhau. Hai cụ nhà thơ Hoàng Cầm và Lê Đạt đến thăm cụ Nguyễn Hữu Đang (không biết nên gọi là nhà gì, nhớ đến ngày 2-9-1945 có người gọi cụ là “nhà tổ chức”!).

Cụ Đang thì đã nằm một chỗ từ lâu, cụ vẫn còn sống nhưng có lẽ không còn xem mà cũng chẳng còn nghe được gì nữa. Cả ba người ngồi bên nhau trầm ngâm, thi thoảng là một câu gọi khẽ: “Đạt đây Đang ơi!”, “Cầm đây Đang ơi!”.

Ngày hôm đó, những ai quan tâm đều biết hai nhà thơ đều đã có quyết định tặng Giải thưởng Nhà nước năm nay. Nhà thơ còn có tác phẩm để đời. Còn “nhà tổ chức” thường chỉ biết làm cho cái chung, cho người khác nên về cuối đời thường dễ là người “trắng tay”. Không biết có phải vậy hay không? Một tấm huân chương muộn màng trong ý tưởng của những người nặng lòng cũng không thành hiện thực? Thời gian sẽ trôi đi. Lịch sử mãi mãi sẽ chói ngời sự kiện ngày Lễ Độc lập 1945, nhưng còn mấy ai biết đến một con người từng được Cụ Hồ Chí Minh khích lệ: “Việc khó mới giao cho chú !”.

DƯƠNG TRUNG QUỐC - Người lao động

Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập

Bai viet duoc lay tu bao TuoitreOnline, at URL

================================================

Phóng Sự - Ký Sự
Thứ Hai, 26/02/2007, 15:28 (GMT+7)

TTO- LTS: Nhiều bạn đọc đã yêu cầu chúng tôi cung cấp thêm tư liệu về ôngNguyễn Hữu Đang, người trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập2-9-1945, buổi lễ đơn giản mà trang nghiêm sẽ mãi mãi in dấu trong lịchsử Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu độc giả, TTO xin đăng lại nguyên vănbài viết "Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngônĐộc lập" của nhà văn Phùng Quán.

Bài viết đã được đăng trong tập Nhớ Phùng Quán của NXB Trẻ 2004 và Phùng Quán - Ba phút sự thật của NXB Văn Nghệ. Bài này được đăng theo bản mới nhất của NXB Văn Nghệ, 2-2007

>> Vĩnh biệt vị trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập

Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập

Tôi là người viết văn nhưng lại đặc biệt say mê nghệthuật kiến trúc. Đầu năm 1990, Đại hội kiến trúc sư toàn quốc, tôi cógửi một bức điện 300 chữ, chào mừng Đại hội. Mở đầu bức điện văn, tôiviết: “Nếu đất nước xây dựng một Đền đài Nghệ thuật, tôi xin được làmthủ từ. Ngày Lễ hội, tôi xin được trải chiếu để văn nghệ sĩ ngồi. Chiếumột tôi dành riêng cho các kiến trúc sư. Vì các anh chị là những ngườitrước tiên đem lại vinh quang, niềm tự hào hoặc ô nhục cho xứ sở, bằngchính các tác phẩm kiến trúc của mình...”.

Lễ đài độc lập dựng giữa quảng trường Ba Đình, có công rất lớn của nhà tổ chức Nguyễn Hữu Đang. Ảnh: TƯ LIỆU

[Ởnhà tôi, ngoài hình ảnh](*) Kim tự tháp, Vạn lí trường thành, ĐềnĂngco, Chùa Vàng Miến Điện, Cố cung, Tháp Eiffel, Khải Hoàn Môn... tôicó chừng vài chục tấm hình cắt ra từ các báo như Nhân Dân, Quân Đội,Lao Động, Hà Nội Mới... chụp cảnh Lễ đài Độc lập với tổng thể vườn hoaBa Đình trong ngày Mồng hai tháng Chín năm Một nghìn chín trăm bốn lăm.

Mỗi lần ngắm nhìn cái công trình kiến trúc mỏng mảnhđược xây dựng bằng gỗ, ván, đinh, vải; được thiết kế và thi công trongvòng 48 giờ - nếu chậm lại một giờ là hỏng - rồi sau đó biến mất khỏimặt đất như một lâu đài trong cổ tích, cặp mắt mờ đục của người línhgià tôi bao giờ cũng cay lệ. Lòng tôi dâng trào biết bao niềm cảm xúcvà suy tưởng miên man ... về Tổ quốc và Nhân dân, về Cách mạng và Khởinghĩa, về máu xương của lớp lớp anh hùng hào kiệt đã thấm đẫm giang sơnkể từ khi trên mặt đất xứ sở Việt Nam xuất hiện công trình kiến trúcmỏng manh này. Nó biến khỏi mặt đất, nhưng tầm vóc, hình dáng cùng vớitổng thể kiến trúc của nó, đã tạc khắc đời đời vào ký ức của cả dântộc...

Ba Đình nắng thu vàng rực rỡ, một biển người vừa bướctừ đêm dài trăm năm nô lệ ra bình minh Độc lập Tự do, cờ hoa trong tayvà câu hát trên môi... Người Hiệp sĩ vĩ đại của Nhân dân cùng khổ vàhai triệu người chết đói, bước vào tuổi năm mươi lăm, râu đen, mắtsáng, lễ phục kaki... đứng trên lễ đài, mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lậpbất hủ: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng...”

Ai có thể tái tạo công trình kiến trúc Lễ đài Độc lậpcùng với tổng thể kì vĩ đó? Không một ai! Kể cả thánh thần... Theo nguý của tôi, Lễ đài Độc lập là cái cột mốc giữa đêm dài trămnăm nô lệ và bình minh của Độc lập Tự do của cả dân tộc. Kể từ khi trênmặt cỏ nắng Ba Đình mọc lên cái cột mốc này, số phận của cả dân tộc đãthay đổi, và số phận nhỏ bé, hèn mọn của cả thằng tôi cũng đã thay đổi.Từ một đứa trẻ chăn trâu mù chữ [tôi đã trở thành] một nhà văn... Cũngtừ cái mốc kiến trúc mỏng manh này, cả dân tộc đã xuất phát, bước vàocuộc trường chinh sáng láng nhất, lâu dài nhất và dữ dội nhất của thếkỉ, với gánh nặng lịch sử trên vai: “Ta vì ta ba chục triệu người/ Cũng vì ba ngàn triệu trên đời”.

Ngắm nhìn một công trình kiến trúc như vậy, những người lính già dãi dầu chiến trận chúng tôi, làm sao không ứa lệ tự hào?

*

Vậy ai là tác giả cụ thể công trình kiến trúc Lễ đàiĐộc lập? Từ mấy chục năm nay, tôi luôn bị thôi thúc bởi niềm mong ướctìm hiểu cho ra. Nhưng cái khó bó cái khôn, và trong điều kiện và hoàncảnh trắc trở của đời mình, tôi không sao thực hiện nổi niềm mong ướcđó.

Thế rồi cách đây ba năm, tôi được một người bạn tặngtôi những tư liệu có liên quan đến sự kiện lịch sử mồng 2 tháng 9.1945anh vừa tìm thấy trong Thư viện Quốc gia, Thư viện Bảo tàng Lịch sử,Viện Sử học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, và kho Lưu trữ Quốc gia.Trong số những bản sao chụp, có mấy tư liệu tôi đặc biệt chú ý:

Thư của Bộ tuyên truyền có tiêu đề VIỆT NAM DÂN CHỦCỘNG HOÀ đề ngày 31.8.1945 gửi Thị trưởng Hà Nội, về việc tổ chức NgàyĐộc lập (Đây là bản chính được đánh máy bằng giấy than đen trên giấytrắng, khổ rộng 130 mm X 210 mm, đóng dấu tròn với dòng chữ “Ngày Độclập” và C.P.C.H.D.C. vòng quanh con dấu, một ngôi sao năm cánh ở giữa,nổi lên dòng chữ BAN TỔ CHỨC). Nội dung thư:

"Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội,

Bộ Tuyên truyền của Chính phủ Lâm thời sẽ tổ chức ngày 2.9.1945 một “Ngày Độc lập”.

Muốn cho ngày ấy có một tính cách thiêng liêng,Ban tổ chức chúng tôi yêu cầu Ngài hạ lệnh cho các chùa chiền, nhà thờcho mở cửa, quét tước sạch sẽ và đốt trầm hương suốt ngày hôm ấy đểmừng Ngày Độc lập.

Kính thư,

Nguyễn Hữu Đang

Một thư khác của Ban Tổ chức “Ngày Độc lập” thuộc BộThông tin và Tuyên truyền, đề ngày 31.8.1945. Hình thức và con dấu nhưtrên. Nội dung thư:

"Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội,

Nhân “Ngày Độc lập”, chúng tôi yêu cầu Ngài cho treo cờ ở vườn hoa Ba Đình và hai bên những phố lân cận.

Còn về lễ chào Quốc kỳ, chúng tôi nhờ Ngài cho sửasoạn cho chúng tôi một chiếc cột cao 12 thước tây đủ cả giây và bánh xe(poulie); sẽ có chỉ thị về chỗ dựng cột cho phu toà Thị chính.

Kính thư,

Nguyễn Hữu Đang

Một thư khác, hình thức, tiêu đề và con dấu giống hai bức thư trên, với nội dung:

"Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội,

Muốn cho Ngày Độc lập tổ chức vào ngày 2.9.1945tới đây được hoàn hảo, chúng tôi yêu cầu Ngài thông báo ngay cho cácPhố trưởng để các ông ấy báo tin cho các nhà trong khu vực mình biếtrằng Cụ nào trong nam giới hay nữ giới muốn đi dự lễ ấy sẽ đến họp ởHội quán Khai trí hồi 13 giờ trước khi đi lên vườn hoa sau Sở tàichính.

Kính thư,

Nguyễn Hữu Đang

Sau khi đọc kỹ những tư liệu trên, tôi suy luận: ôngNguyễn Hữu Đang là Trưởng ban tổ chức Ngày Độc lập, vậy chắc ông phảibiết ai là tác giả công trình kiến trúc Lễ đài. Cần phải tìm gặp ông đểhỏi cho ra.

*

Chân dung Nguyễn Hữu Đang (ảnh chụp năm 1976, khi ông 63 tuổi) - Ảnh tư liệu

Nguyễn Hữu Đang thì tôi được biết mặt từ mấy chục nămtrước, nhưng rất ít khi được chuyện trò với anh. Mỗi lần tôi được anhhỏi chuyện, tôi bối rối, sướng mê người, đầu không khiến mà chân cứ rụtvề tư thế đứng nghiêm, như ngày còn làm trinh sát mỗi lần được Chính ủySư đoàn hỏi chuyện.

Tôi nghĩ bụng: Tôi là cái thá gì mà được một người nhưNguyễn Hữu Đang hỏi chuyện? Nguyễn Hữu Đang, người tham gia hoạt độngcách mạng từ khi tôi chưa đẻ; nhà hoạt động báo chí công khai của Đảngcùng thời với Trường Chinh, Trần Huy Liệu; một trong những người tổchức và lãnh đạo chủ chốt của Hội Truyền bá Quốc ngữ cùng thời với PhanThanh, cụ Nguyễn Văn Tố. Một trong những người sáng lập và tổ chức HộiVăn hoá Cứu quốc cùng với Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi. Và cuốicùng là Trưởng ban Tổ chức ngày Đại lễ của đất nước: 2-9-1945.

Cách đây khoảng mười lăm năm, anh từ cao nguyên HàGiang trở về, tá túc tại quê nhà. Hàng năm vào dịp giáp Tết, lại thấyanh đáo lên Hà Nội trên chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô (cũ). Anh mangđến cho mấy bạn cũ mỗi người một cân gạo nếp. Một lần tôi cũng được anhcho một cân. Tôi cảm động và ngạc nhiên hỏi anh: “Anh kiếm đâu ra gạonếp mà cho chúng em thế?”. Anh cười: “Mình sống ở nông thôn cũng phonglưu ra phết. Không những có gạo nếp biếu bạn, lại còn có cả thóc và rơmcho nông dân vay”. - “Hiện nay anh đang làm gì ở dưới đó?”. “Mìnhnghiên cứu Lão Trang và dịch lại cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô qua bản tiếng Pháp. Đối chiếu thấy bản dịch đã in sai nhiều quá”.

Hai năm trở lại đây không thấy anh lên Hà Nội nữa. Mấyanh em quen cũ chúng tôi hỏi nhau: “Không biết anh Đang có gặp chuyệngì trắc trở dưới đó không?”

Nỗi lo lắng này thường xuyên ám ảnh tôi. Nhân thể tôimuốn tìm hiểu về công trình Lễ đài Độc lập, năm đó tôi nhất quyết phảivề thăm anh, mặc dầu đã gần giáp Tết. Tôi nói khó với vợ: “Em bớt choanh một phần lương hưu tháng này; lấy tiền tàu xe, ăn đường, về TháiBình tìm thăm anh Đang...” “Nhưng tết nhất đến nơi rồi, chờ ra giênganh đi có được không?”. “Anh bỗng nhiên thấy nóng ruột quá... đợi đếnra giêng e chậm mất. Anh Đang đã gần cái tuổi tám mươi, mà lại một thânmột mình...”. “Anh có biết địa chỉ của anh Đang không?”. “Anh chỉ biếtanh ấy ở Thái Bình, địa chỉ cụ thể thì không biết”. “Cả cái tỉnh TháiBình rộng mênh mông với hơn hai triệu dân, không có địa chỉ cụ thể làmsao anh tìm được?”. “Trời đất! Một người như anh Nguyễn Hữu Đang thìanh tin rằng về dưới đó hỏi đứa con nít nó cũng biết”.

Vợ tôi đành trao cho tôi nửa số tiền lương hưu thángcuối năm vừa lĩnh, với vẻ mặt nhẫn nhịn của người vợ phải trao cả mộtnửa sản nghiệp cho chồng tiêu hoang vào một việc không đâu! Tôi vộinhét mấy tờ giấy bạc vào túi, nhảy lên xe đạp, cắm đầu đạp thẳng ra gavì sợ vợ thay đổi ý kiến.

Vừa đi tàu, vừa ô-tô, xe đạp... Sáng 26 Tết, tôi cómặt tại thị xã Thái Bình. Để đỡ bớt thì giờ tìm kiếm, tôi hỏi đường đếnSở Văn hóa và Hội văn nghệ tỉnh, hỏi địa chỉ của anh. Tôi thực sự ngạcnhiên khi thấy nhiều anh chị em cán bộ ở hai cơ quan này không biếtNguyễn Hữu Đang là ai. Có vài người biết nhưng lại rất lơ mơ: “Hình nhưông ta ở Quỳnh Phụ, Kiến Xương hay Tiền Hải gì đó...”.

Ở Hội văn nghệ tỉnh, tôi làm quen với một nhà thơ trẻ.Khi biết rõ ý định của tôi, anh hăng hái nói: “Cháu sẽ đưa chú ra cáiquán thịt chó nổi tiếng, ở đó thường có mấy anh cán bộ về hưu, chắc sẽhỏi ra”. Đến quán thịt chó, tôi đành móc số tiền còm cõi trong túi, gọimột đĩa thịt chó luộc và hai chén rượu cho phải phép. Đợi chừng nửatiếng, có một người đứng tuổi để chiếc xe cúp trước cửa, đi vào quán.Nhà thơ trẻ bật dậy nói với tôi: “Ông này ở cơ quan an ninh tỉnh, hỏichắc biết”. Tôi vội níu tay anh lại, dặn nhỏ: “Cậu đừng giới thiệu mìnhlà ai, sẽ rách việc”. “Biết rồi, biết rồi, chú không phải dặn”.

Anh bạn trẻ đi đến gặp anh ta, nói cái gì đó, và chỉtay về phía tôi. Anh cán bộ an ninh tươi cười bắt tay tôi, ngồi đốidiện và niềm nở hỏi: “Xin lỗi cụ, năm nay cụ hưởng thọ bao nhiêu tuổiạ?”. Tôi đoán chắc anh ta thấy tôi ăn vận nhếch nhác – áo quần bà banâu, chân dép lốp – râu tóc bạc trắng, nên hỏi vậy. Tôi liền nói phứalên: “Cám ơn đồng chí – tôi cười – cũng thất thập cổ lai hi rồi đồngchí ạ”. “Trước cụ có làm công tác ở đâu không ạ?”. “Tôi làm thườngtrực cho một cơ quan thương nghiệp trên Hà Nội... về hưu đã gần chụcnăm rồi”. “Cụ là thế nào với ông Nguyễn Hữu Đang ạ?”. “Tôi có quen biếtgì ông ta đâu. Thậm chí cũng chưa biết mặt. Chẳng là ở tổ hưu của tôicó một cụ nghe đâu hồi bí mật cùng hoạt động với ông ta. Biết tin tôivề thăm đứa cháu họ công tác giáo viên ở Quỳnh Côi, ông cụ gửi tôi mườingàn bạc để biếu ông ấy, mà giao hẹn phải đưa tận tay. Tôi tưởng ông ấyở thị xã, hỏi loanh quanh mãi không ai biết...”.

Anh cán bộ cười: “Ông ấy đâu có ở thị xã. Hiện ông ấyđang ở thôn Trà Vỵ, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương... cách đây gần haichục cây số. Ngược gió này mà cụ đạp xe về đó cũng vất vả đấy...”. Thấytôi chăm chú lắng nghe, anh cán bộ trở nên cởi mở: “Nói để cụ biết,trước kia cái ông Đang ấy cũng là người hoạt động cách mạng có têntuổi... Nhưng rồi ông ta giở chứng, làm báo làm văn chống đối Đảng vàNhà nước, bị xử phạt 15 năm tù ngồi, đưa lên giam trên trại tù HàGiang. Mãn hạn tù, ông ta xin về cư trú tại quê quán. Tuy vậy [cách đâymấy năm ông Đang này tự tiện đi] sang Nam Định không có giấy đi đường,đến nhà một đối tượng mà công an đang theo dõi. Công an hai tỉnh liềnphối hợp, hỏi giấy tờ đi đường của ông ta, rồi bắt giam giữ bốn tháng ởnhà lao hai tỉnh để cảnh cáo, và tổ chức khám nhà. Sau đó thả chovề...”.

Tôi tỏ ý sợ hãi gãi đầu gãi tai: “Chà... biết rắc rốithế này thì tôi chẳng gặp ông ấy nữa... đem tiền về trả lại thôi...”.Anh cán bộ xuê xoa: “Không sao đâu cụ ạ, chính sách của ta bây giờ làđổi mới tư duy. Nghe đâu trên cũng đang sửa soạn cho ông ấy được hưởnglương hưu. Nếu cụ muốn về thăm ông ấy, cứ việc về. Tôi sẽ chỉ đường chocụ”. Anh cán bộ chấm ngón tay vào li rượu, vẽ lên mặt bàn, chỉ vẽ chotôi rất cặn kẽ con đường từ thị xã về chỗ anh Đang tá túc. Tôi đứng lênrối rít cảm ơn anh...

*

Con đường đá mười mấy cây số chi chít ổ gà. Gió cuốiđông buốt như kim châm táp thẳng vào mặt. Nhưng vừa đạp xe tôi vừa nghĩngợi miên man về sự thăng trầm của những kiếp người tình nguyện dấnthân vì nghĩa lớn, nên con đường cũng như bớt xa... Đến chỗ ngã ba rẽvào trường phổ thông cấp I, II xã Vũ Công – nơi anh Đang tá túc – tôivào cái quán bên đường uống ly rượu cho ấm bụng. Ông cụ chủ quán khibiết tôi từ Hà Nội về tìm thăm anh Đang, rót rượu tràn ly và nói: “Ôngấy thỉnh thoảng vẫn ngang qua đấy, tôi đều mời vào uống nước. Ông ấytằn tiện khét tiếng cái xã Vũ Công này. Mới cách đây dăm hôm, ông ấyđèo sau xe cái giỏ tre ràng buộc rất kỹ. Ông ấy kể với tôi tối qua bắtđược con rắn gì dữ lắm, phun phè phè bò vào nhà mình. Định làm thịt ănnhưng tiếc, chở lên chợ bán cho một tay buôn rắn độc, kiếm lấy mấynghìn mua mấy lạng mỡ lá...”.

Tôi bật cười: “Ông ấy bây giờ lại thêm cái tài bắt rắnđộc, mà mất công đạp xe mini những mười mấy cây số để đổi lấy mấy lạngmỡ lá... Vui thật! Tôi có người bạn làm thơ tên là Tuân Nguyễn, chếtlâu rồi, làm câu thơ nghe thật vô nghĩa, nhưng cứ bất chợt hiện ratrong trí nhớ tôi: Cuộc đời vui quá không buồn được!”. Ông chủquán rót thêm ly rượu nữa, giọng hào hiệp: “Ly này tôi đãi cụ!... Màkhổ, ông ấy có bán được đâu. Chiều tối ông ấy đạp xe về phàn nàn: nókhông chịu mua, nó bảo loại rắn này không nằm trong bộ tam xà!”. Tôicười ngất.

Anh Đang ở gian đầu hồi cái nhà bếp của khu tập thểgiáo viên, trước mặt là ao cá Bác Hồ của xã. Đứng bên kia bờ ao, một côgiáo chỉ cho tôi: “Bác ấy đang ngồi ở bậc cầu ao kia kìa! Đang cọ rửacái gì mà chăm chú thế không biết...”. Tôi dắt xe đạp qua sân trường,vòng ra sát sau lưng anh.

Anh đang dùng nắm rơm cọ rửa những viên gạch vỡ đôi,xếp thành chồng cao cạnh chỗ ngồi. Tôi đứng lặng nhìn anh. Đầu anh độicái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần lao độngmàu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây cao su đen nom như vòng cùmsắt; chắc hẳn để nhét hai ống quần vào đó chống rét, lưng anh khònghình chữ C viết nghiêng...

Tôi chợt nhớ cách đây rất lâu, tôi được nghe nhữngngười cùng thời với anh kể. Hồi Mặt trận Bình dân, Nguyễn Hữu Đang làcán bộ Đảng được cử ra hoạt động công khai, ăn vận sang trọng như côngtử loại một của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắcdiễn thuyết, oai phong, hùng biện, tuyên truyền cách mạng... Mỗi lầncách mạng cần tiền để hoạt động, Nguyễn Hữu Đang có thể đến bất kì mộtnhà tư sản Hà Nội nào giàu có, vay vàng, tiền. Mà những người này traovàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì, vì họ tin sâusắc rằng trao vàng, tiền cho anh là trao tận tay cho cách mạng...

Và bây giờ, anh ngồi đó, gần tám chục tuổi, không vợ,không con, không cửa không nhà, lưng khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọrửa những viên gạch vỡ - chẳng hiểu để làm gì – như người bõ già trongtruyện Hương cuội của Nguyễn Tuân cọ rửa những viên cuộitrắng để tẩm kẹo mạch nha vào dịp tất niên... Miên man nghĩ như vậy vàtôi bật phì cười...

“Anh Đang!”, tôi nghẹn ngào gọi. Anh quay lại, chớpchớp mắt, răng vàng sỉn, cùn mòn gần nửa vì năm tháng... “Phùng Quán!Chú về đây từ lúc nào thế?”. Hai anh em chúng tôi ôm chặt nhau giữa bậccầu ao. Và cả hai gương mặt già nua phút chốc đẫm lệ...

*

Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng khoảng 5 métvuông, chật kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọcngang sát mái, treo vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát,áo may-ô thủng nát, quần lao động vá víu. Cạp quần đeo lủng lẳng mộtchùm lục lạc làm bằng vỏ hộp dầu cao Sao vàng xuyên thủng, buộc dâythép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc rung lên lengkeng, nghe rất vui tai.

Sau đó tôi được anh giải thích tác dụng của chùm lụclạc: Đi lại trong đường làng những đêm tối trời, anh thường bị cánhthanh niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm sầm vào, làm anh ngã trẹotay, sầy gối. Học tập sáng kiến của đồng bào các dân tộc ở Việt Bắc,treo mõ vào cổ trâu – trâu gõ mõ, chó leo thang – anh Đang chế chùm lụclạc đeo vào cạp quần, báo hiệu có người để họ tránh xe. Tác dụng thứhai, quan trọng không kém... Mỗi lần đạp xe trên đường vắng, nghe tiếnglục lạc loong coong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ cô độc.

Chính giữa gian chái kê cái tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánhmọt ruỗng không khép kín được, khoá một chiếc khoá lớn như khoá nhàkho. Trên nóc tủ, xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ lá mà ở Hà Nội ngườita thường quẳng vào các đống rác. Cạnh tủ là một cái giường cá nhân,bốn chân giường được thống cố thêm bốn chồng gạch. Trên giường một đốngchăn bông trần rách thủng, và một xấp quần áo cũ làm gối.... Sát chângiường kê chiếc bàn xiêu vẹo chỉ có hai chân, hai chân kia được thaybằng hai sợi dây thép buộc treo vào tường. Anh nói, giọng Lão Trang:“Một cái bàn bốn chân là một con vật. Khi nó chỉ còn hai chân nó là mộtcon người”. Trên mặt bàn xếp kín các chai lọ, vỏ đồ hộp, vài con daolàm bằng mẩu [thép vụn.

Anh chỉ vào vài cái "hòm" được xếp bằng những viêngạch vỡ, như] thuyết minh viên giới thiệu hiện vật trong bảo tàng nghệthuật: “Nó là loại gạch nung rất già, gần đạt tới tiêu chuẩn của sànhsứ cổ, sức nặng và độ bền của nó làm cho các loại chuột, mối, dán phảivị nể”. Bây giờ tôi mới hiểu anh cọ rửa những viên gạch vỡ để làm gì.Dưới gầm bàn là mấy chục đôi dép cao su hư nát, đứt quai, được bó thànhtừng bó, hai cái vại muối dưa rạn nứt, sứt miệng, một đống bản lề cửa,sắt vụn, đinh còng queo, mẩu dây thép han rỉ... Tất cả những đồ lề đó,phủ lên một lớp bụi tro...

Lúc tôi bước vào, gian buồng mờ mịt khói. Anh giảithích: “Giờ này các cô giáo nấu ăn. Bếp tập thể ở sát bên kia tường.Tôi đã trộn rơm với bùn trát những khe hở sát mái, nhưng khói vẫn cứlọt sang – anh cười - Chịu khói một chút nhưng cũng có cái lợi. Thỉnhthoảng lại được ngửi mùi xào nấu lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng.Trong việc dở nào cũng có việc hay, và ngược lại”. “Để em đạp xe ra chợmua cái gì về ăn”. “Thôi khỏi cần. Chú về chơi hôm nay là rất gặp may.Sáng nay tôi vừa chế biến được một mẻ thức ăn ngon vô địch. Chú nếm rồisẽ biết. Cơm cũng có sẵn rồi. Tôi mới nấu lúc sáng, ủ vào lồng ủ rơm,còn nóng nguyên. À, tôi lại có cả rượu cho chú, rượu cam hẳn hoi, quàcủa Hội Nhà văn gửi biếu vào dịp Tết năm ngoái... Tôi chỉ mới mời mấythầy giáo mấy chén, còn đủ cho chú say sưa suốt mấy ngày ở chơi”.

Anh xăng xái lấy chùm chìa khoá buộc chung với chùmlục lạc, mở khoá tủ tìm chai rượu. Tôi liếc nhìn vào mấy ngăn tủ. Nhữngxấp quần áo cũ nát để lẫn với những chồng báo, giấy má, sách... ố vàng.Ngăn dưới cùng để rất nhiều chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ lon bia, và nhiềuchồng các loại bao thuốc lá. Anh lúi húi tìm một lúc khá lâu mới lôi rađược chai rượu cam còn già nửa: “Đây rồi! Bây giờ già hoá ra lẩm cẩm.Để chỗ này lại tìm sang chỗ kia”. Tôi cười, nói: “Nhìn anh, em cứ tưởnglà một nhà quí tộc Nga thời Sa Hoàng, tự tay tìm chọn loại rượu quí cấtgiữ một trăm năm trong hầm rượu, để đãi khách quí”.

Tôi chỉ những chồng vỏ bao thuốc lá, hỏi: “Anh chơisưu tập vỏ bao thuốc lá à? Thế mà [vợ em ở nhà khi em hút xong, cô ấy]phải dọn nhặt đem đốt”. Anh kêu lên: “Thế có tiếc không! Lần này chú vềtrên đó nhớ dặn cô, có vỏ bao thuốc lá ngoại cứ cất giữ cho anh Đang,càng nhiều càng tốt. Nó là hàng đối lưu của tôi đấy...”. “Hàng đốilưu?”, tôi ngạc nhiên hỏi. “Để tôi dọn cơm cho ăn rồi tôi giảng cho chúnghe thế nào là hàng đối lưu. Tôi xem ra chú mù tịt về môn kinh tếchính trị học”.

Tôi ngắm nhìn căn hộ độc thân đầy khói của anh, hỏi:“Hơn mười lăm năm qua anh vẫn sống ở gian buồng này à?”. “Ngày tôi mớivề xã, tôi sống ở trại lợn của Hợp tác xã. Chẳng là cán bộ xã cũngthông cảm hoàn cảnh khó khăn của tôi, nên đề nghị tôi ra đó trông coigiúp như nhân viên thường trực của trại. Ở đó một thời gian. Nhà khocũng thoáng mát, tôi có thể ăn ở, đọc sách, viết lách kết hợp với trôngcoi trại. Mỗi mùa hợp tác xã trả công điểm mấy chục cân thóc, mấy chụccân rơm làm chất đốt. Số thóc, rơm này tôi không phải dùng đến, trongmấy năm tiết kiệm được hai ba tạ thóc, hai trăm sáu chục cân rơm cho bàcon vay. Ngoài ra, vào dịp tết, Hợp tác xã bồi dưỡng thêm ít thóc nếp,đem lên Hà Nội biếu các chú... Khi bắt tay vào việc dịch thuật lại cuốnLịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, tiếng lợn kêu ầm ĩ quá làm tôi mất tậptrung tư tưởng, nên phải xin thôi công việc trông coi trại, chuyển vềđây để được yên tĩnh hơn”.

Anh lôi dưới gầm giường ra một cái xô tôn thủng đáy,đặt lên miệng xô tấm gỗ dán. “Đây là bàn ăn – anh giới thiệu và vầntiếp ra hai cái vại muối dưa sứt miệng – Còn đây là ghế ngồi. Bà connông dân mình nghèo mà phí phạm thế đấy. Hai cái vại còn tốt như thếnày mà đem quẳng bụi tre... Tôi nhặt về, cọ rửa sạch sẽ, lật đít lên,làm thành cái ghế ngồi vừa vững chãi lại vừa mát. Chú ngồi thử mà xem,có khác gì ngồi trên đôn sứ đời Minh?”.

Anh dọn ra hai cái đĩa, rồi chọn trong hai cái báthương đậy viên gạch vỡ gắp ra năm sáu viên gì đó tròn tròn, đen xỉn,nom rất khả nghi. Anh chỉ vào một đĩa, giới thiệu thực đơn: [“Đĩa nàylà chả cóc, đĩa này là chả nhái. Nhờ ăn] thường xuyên hai thứ đặc sảnnày mà tôi rất khoẻ, còn khoẻ hơn cả chú”.

Anh nhắc trong cái rổ phủ đầy rơm để ở góc nhà, xoongcơm đã ăn mất một góc mà anh giới thiệu vẫn nóng nguyên. Nói đúng hơnlà một thứ cháo rất đặc, có thể xắn thành từng miếng như bánh đúc. “Banăm trở lại đây, tôi phải ăn cơm nhão, nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn. Tôinấu cơm với nước vo gạo nên rất bổ. Chẳng là các cô giáo thường bỏ phínước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu, dặn đổ nước vo gạo vào đấycho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm. Tinh tuý của gạo nằm trongnước vo, bỏ đi thật phí phạm”.

“Nhưng cóc nhái đâu ra mà anh bồi dưỡng được thườngxuyên thế?”, tôi hỏi. “Ấy chỗ này mới là bí quyết. Phải huy động lựclượng quần chúng, tức là các cháu thiếu nhi. Biết các cháu ở đây thíchchơi vỏ bao thuốc lá, nhất là các loại vỏ bao đẹp. Mỗi lần lên thị xãhoặc sang Nam Định chơi, tôi đều nhặt nhạnh về, đổi cho các cháu lấycóc, nhái. Cũng đề ra tiêu chuẩn hẳn hoi. Một vỏ bao ba số đổi 3 concóc hoặc 5 con nhái. Các loại khác 2 cóc, 3 nhái. Bởi vậy tôi mới nóilà hàng đối lưu, chú hiểu chưa. Mỗi tháng tôi chỉ cần ba bốn chục cáivỏ bao là thừa chất đạm, mà là loại đạm cao cấp… Hôm nào chú về tôi gửibiếu cô, chú Cung, mỗi nhà mấy viên nếm thử. Cô chú ăn thịt cóc của tôirồi sẽ thấy các thứ thịt khác đều nhạt hoét!”.

Anh rót rượu, chọn gắp viên chả cóc, nhái bỏ vào bátcho tôi, ân cần, âu yếm, trang trọng, làm tôi ứa nước mắt. Anh hỏi:“Chú đi đâu mà lại lặn lội về tận đây, vào lúc tết nhất sắp đến nơi?”.“Em về đây chỉ một mục đích là thăm anh. Hơn hai năm nay không thấy anhlên Hà Nội, chúng em rất lo. Không biết anh ốm đau gì, liệu anh có cònsống không? Về đây thấy anh vẫn khoẻ mạnh, em rất mừng… Anh là nhânchứng của một quá khứ hào hùng của đất nước. Nếu anh chết đi, tàn lụinhư cỏ cây, không nhắn gửi gì lại cho các thế hệ sinh sau, theo em làmột tổn thất không gì bù đắp được…”.

Tôi lấy đưa anh xem số tài liệu liên quan đến ngày Đạilễ mồng 2 tháng 9 năm 1945, vừa sao chụp: [“Em suy luận ra anh làTrưởng] ban Tổ chức Ngày Độc lập như trong tư liệu hiện còn giữ được.Em muốn được tận tai nghe anh kể lại những kỉ niệm, những hồi ức mà anhcho là sâu sắc nhất… mà nếu anh không dùng đến thì cho em xin”.

*

Anh im lặng rất lâu, dùng đũa tém lại những mảnh vụnthịt cóc, nhái trong đĩa, gắp bỏ vào bát mình những mảnh khác rớt xuốngmâm ván. Anh chăm chú nhìn vào cái đĩa đã tém gọn, như đang gắng đọcnhững hồi ức in lại trong lớp men sành… Anh chợt nói, mắt vẫn không rờicái đĩa:

“Thấm thoắt thế mà đã bốn mươi bảy năm trôi qua… Tôicòn nhớ như in ngày hôm đó là ngày 28 tháng 8… Tại sao tôi nhớ, vì đólà thời khắc lịch sử phải được tính từng phút một… Năm đó tôi bước vàotuổi băm ba. Chính phủ cách mạng lâm thời họp tại Bắc Bộ phủ, để quyếtđịnh ngày lễ ra mắt quốc dân đồng bào…

Hôm đó, tôi có việc cần phải giải quyết gấp, nên đếnnơi thì phiên họp vừa giải tán. Vừa bước lên mấy bậc thềm thì thấy cụNguyễn Văn Tố từ trong phòng họp đi ra. Cụ mừng rỡ chụp lấy tay tôi,nói: “Anh vào ngay đi, cụ Hồ đang đợi anh trong đó”. Tôi theo cụ Tố vàophòng họp. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp mặt ông Cụ.

Ông Cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ quần áo chàm, tay chốnglên ba toong. Cụ Tố kéo tôi lại trước mặt Cụ, giới thiệu: “Thưa Cụ, đâylà ông Nguyễn Hữu Đang, người mà phiên họp quyết định cử làm Trưởng banTổ chức ngày lễ”. Cụ Hồ nhìn tôi một lúc với cặp mắt rất sáng, cặp mắtmà về sau này nhân dân cả nước đồn rằng có bốn con ngươi – như muốn cânnhắc, đánh giá người mà Cụ quyết định giao trọng trách.

Cụ hỏi tôi với giọng Nghệ pha, rất giống giọng cụ PhanBội Châu mà có lần tôi đã được nghe: “Chính phủ lâm thời quyết định làmlễ ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chín. Chú có đảmđương được việc tổ chức buổi lễ không?”. Tôi tính rất nhanh trong đầu:tháng 8 có 31 ngày, như vậy là chỉ còn 4 ngày nữa thôi... Tôi suy nghĩcân nhắc trong từng phút. Hình dung ra tất cả những khó khăn như núi màtôi phải vượt qua... để tổ chức được một ngày đại lễ như vậy, trong khimình chỉ có hai bàn tay trắng. Tôi nói với Cụ Hồ: “Thưa Cụ, việc cụgiao là quá khó vì gấp quá rồi”. Cụ Hồ nói ngay: “Có khó thì mới giaocho chú chứ!”.

Anh Đang ngẩng phắt lên nhìn tôi. Vẻ già nua cùng quẫntrên con người anh như được trút bỏ hết. Dáng dấp oai phong, khí pháchcủa người chiến sĩ cách mạng luôn luôn đứng ở hàng xung kích lại hiệnnguyên hình.

“Như chú biết đấy - giọng anh vụt trở nên sang sảng –tôi là một nhà tuyên truyền, động viên thiên hạ, chuyên nghiệp. Thế màlần này tôi lại bị ông Cụ động viên một cách tài tình, bằng một lờithật ngắn gọn, giản dị! Nghe ông Cụ nói vậy lúc đó tôi thấy trong conngười mình bừng bừng khí thế, muốn lập nên được những kì tích, nhữngchiến công thật vang dội... Tôi nói với ông Cụ: “Thưa Cụ, Cụ đã nói nhưvậy con xin nhận nhiệm vụ. Con xin hứa sẽ cố gắng hết sức để hoàn thànhtrọng trách”. Cụ Hồ đứng lên, bắt tay tôi, dáng bộ, gương mặt nom rấtvui vẻ, bằng lòng: “Thế thì chú trở về bắt tay ngay vào việc đi. Đếnsáng ngày kia, chú đến đây báo cáo với tôi công việc được tiến hành nhưthế nào”.

Tôi chào Cụ, ra về, lòng rạo rực lâng lâng... Nhưngkhi vừa bước xuống hết những bậc thềm rộng thênh thang của Bắc Bộ phủ,tôi chợt nghĩ ra một điều. Tôi liền quay trở lại phòng họp. Cụ Hồ vẫncòn đứng đó. Cụ hỏi ngay: “Chú còn cần gì nữa?”. “Thưa Cụ, để hoànthành trọng trách, xin Cụ trao cho con một quyền...”. “Quyền gì, chú cứnói đi!”. “Thưa Cụ, quyền được huy động tất cả những gì cần thiết chobuổi lễ, về người cũng như về của...”. “Được, tôi trao cho chú cáiquyền đó. Nếu ai hỏi huy động theo lệnh của ai, cho phép chú được trảlời: Theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh!”.

Công việc đầu tiên là tôi thảo một thông cáo ngắn gọn– anh gắp thêm mấy viên chả cóc trong bát hương, bỏ ra đĩa rồi kể tiếp- Nội dung như sau: Ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chính phủ cách mạnglâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào, tuyên ngôn Độc lập tạivườn hoa Ba Đình. Đồng bào nào có nhiệt tâm, muốn đóng góp sức, góp củavào việc tổ chức ngày lễ lịch sử trọng đại này, xin mời đến Hội quánTrí Tri phố Hàng Quạt gặp Ban tổ chức. Thông cáo được gửi ngay đến tất cả các báo hàng ngày, yêu cầu đăng lên trang nhất, với hàng tít thật lớn chạy hết trang báo.

Sáng hôm sau, đồng bào tập hợp trong ngoài chật kínHội quán. Người ghi tên vào các công tác, người góp tiền, góp vàng, gópvải vóc, gỗ ván. Nhiều người từ chối không lấy giấy biên nhận: “Biếtbao anh hùng, liệt nữ đóng góp cho nền độc lập của dân tộc, đâu có lấygiấy biên nhận“, họ nói vậy. Tôi mời mọi người dự cuộc họp chớp nhoáng,và đưa ra ý kiến: Việc cần thiết trước tiên là phải dựng một lễ đài Độclập thật đẹp, thật lớn, thật uy nghi, xứng đáng với ngày lịch sử trọngđại này, tại trung tâm vườn hoa Ba Đình để Chính phủ cách mạng lâm thờiđứng lên ra mắt. Vậy đồng bào nào hiện có mặt tại đây có thể đảm nhiệmtrọng trách đó?

Một người trạc ngoài ba mươi, ăn mặc lối nghệ sĩ, đeo kính trắng, bước ra nói: “Tôi là hoạ sĩ Lê Văn Đệ (1).Tôi xin tình nguyện nhận việc dựng lễ đài. Trưa nay tôi sẽ mang bảnphác thảo lễ đài đến ban tổ chức xem xét”. Tôi bắt tay hoạ sĩ, nói:“Tôi được biết tên tuổi anh từ lâu và cũng nhiều lần được xem tranh củaanh. Tôi xin thay mặt Ban tổ chức hoan nghênh nhiệt tâm đóng góp củaanh. Nhưng Lễ đài Độc lập là một công trình kiến trúc, tuy dựng gấprút, tạm thời, nhưng phải đạt những tiêu chuẩn không thể thiếu của nónhư sự vững chắc, sự hài hoà công trình với tổng thể... Nói ví dụ nếunhư không vững chắc, mấy chục con người đứng lên, nó đổ sụp xuống thìngày lễ coi như thất bại. Bởi vậy cần một kiến trúc sư phối hợp vớianh”.

Một người trẻ tuổi ăn vận chỉnh tề, từ trong đám đông bước ra, tự giới thiệu: “Tôi là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh (2),cùng hoạt động trong Hội Văn hoá Cứu quốc với anh Phạm Văn Khoa. Hômqua tôi được anh Khoa cho biết ý đồ của Ban tổ chức, tôi đã vẽ xong bảnđề án thiết kế lễ đài”. Anh Quỳnh trải cuộn giấy can cầm sẵn trên taylên mặt bàn. Đó chính là toàn cảnh lễ đài Độc Lập mà sau này chú đượcnhìn thấy in hình trên báo chí. Bản vẽ thật đẹp, thật chi tiết, tỉmỉ... Lễ đài với tổng thể vườn hoa Ba Đình, vị trí dựng lễ đài, chiềucao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, cắt dọc lễ đài, độ lớn các xàgỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát v.v... Sau khi nghe anh Quỳnh thuyếttrình, tôi xem xét, cân nhắc rồi đặt bút ký duyệt bản thiết kế, đóngdấu Ban tổ chức.

Tôi nói với anh Lê Văn Đệ và anh Ngô Huy Quỳnh: “Bantổ chức quyết định giao việc này cho hai anh. [Các anh cần gì, chúngtôi] sẽ lo chạy đầy đủ, Hiện nay chúng tôi có một kho ba ngàn thước lenđỏ (3), cần dùng bao nhiêu các anh cứ lấy dùng. Lễ đài phảiđược dựng xong trong vòng 48 giờ đồng hồ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2tháng 9, tôi sẽ đến nghiệm thu. Chúc các anh hoàn thành nhiệm vụ”.

Sáng ngày 31 tháng 8, tôi đến Bắc Bộ phủ gặp Cụ Hồ nhưCụ đã chỉ thị. Sau khi nghe tôi báo cáo ngắn gọn, đầy đủ về tất cả mọiviệc có liên quan tới ngày lễ, Cụ nói giọng hết sức nghiêm trang: “Chúphải nhớ ngày Mồng hai tháng Chín tới sẽ là một ngày lịch sử. Đó làngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và ngày khai sinh nước Việt NamDân chủ Cộng hoà”.

*

“Ông Đang ơi! Ông Đang ơi!”, tiếng con nít gọi nheonhéo ngoài cửa, ngắt ngang câu chuyện của anh. Tôi nhìn ra, thấy haichú bé chạc 9, 10 tuổi, mỗi chú cầm một cành tre, đầu cành tre thõngthượt một con rắn nước, mình nhỏ bằng chuôi dao, đầu bị đập dập còn rỉmáu tươi: “Ông có đổi rắn nước không ạ?”. Anh Đang bỏ đũa bước ra cửa,xem xét cẩn thận hai con rắn nước, rồi hỏi: “Các cháu định đổi như thếnào?”. “Ông cho cháu mỗi con hai cái vỏ bao ba số”.

“Các chú đừng có giở thói bắt chẹt”, giọng nói và dángbộ của anh đã chuyển sang giọng của dịch vụ đổi chác, “mỗi con rắn nàychỉ giá trị bằng hai con cóc. Nhưng thôi, thì ông cũng đành chịu thiệtvậy, mỗi con một vỏ bao ba số, các chú có đổi thì đổi, không đổi thìthôi”. Hai chú bé ngần ngừ một lúc, rồi nói: “Chúng cháu đổi ạ”. Anhquay vào mở khoá tủ, chọn lấy ra hai cái vỏ bao ba số, đưa cho mỗi chúmột chiếc, và cầm lấy hai con rắn. Hai chú bé cũng xem xét hai cái vỏbao cẩn thận không kém ông Đang xem xét hai con rắn. Một chú nói: “Ôngđổi cho cháu cái vỏ bao khác, cái này bên trong không có tờ giấy vàng”.Anh cầm lấy cái vỏ bao xem lại, cười: “Được, ông sẽ đổi cho vỏ baokhác. Sau này chú mà làm cán bộ thu mua thì Nhà nước sẽ không phải chịuthua thiệt”.

Anh cầm hai con rắn bỏ vào cái rổ con ở góc nhà, mặttươi hẳn lên, như người buôn bán vừa vớ được món hời: “Thịt rắn còn bổhơn thịt nhái. Tối mai tôi sẽ đãi chú món rắn om riềng mẻ. Ăn vào chúsẽ [khoẻ, bơi qua sông không cần phà] Tân Đệ”.

*

Tôi ở lại chơi với anh Đang ba ngày, thuê một anh phónháy ở xã trên xuống chụp mấy pô ảnh làm kỉ niệm. Bữa cơm tiễn tôi, anhcó vẻ buồn. Vừa dùng đũa tém tém mấy khúc rắn om mặn chát nổi muốitrong đĩa, anh vừa nói: “Hiện nay tôi đang cố gắng hoàn thành thiên hồiký thuật lại tất cả những gì có liên quan đến thế sự, kể từ khi tôibước chân vào con đường hoạt động cách mạng cho đến những năm tháng gầnđây... Trong hồi ký, tôi sẽ đề cập đến những việc mà từ trước đến naytôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như bản thảo Tuyên ngôn Độc lập Cụ Hồ viết... còn hay mất, nếu còn thì bây giờ đang ở đâu... Hoặc cụ định sửa hai câu trong bản Tuyên ngôn,nhưng không kịp vì bản chính đã đưa in mất rồi. Là Trưởng ban Tổ chứcngày lễ, tôi phải phụ trách việc in ấn những tài liệu có liên quan đếnvận mệnh đất nước này, nhưng ... như chú biết đấy, hiện nay trong Bảotàng Hồ Chí Minh cũng như Bảo tàng Lịch sử, không có bản thảo Tuyên ngôn Độc lập... Tôi sợ sẽ làm không kịp mất, gần tám chục tuổi đầu rồi còn gì, màlại không có điều kiện làm việc, ban đem coi như chịu chết, đèn đóm tùmù, đúng là đóm thật”...

Anh im lặng một lúc lâu, rồi ngẩng lên nhìn tôi, hỏitiếp: “Chú có biết điều lo lắng nhất của tôi hiện nay là gì không?”.Không đợi tôi đoán, anh nói luôn: “Tôi lo nhất là không biết chết ởđâu. Lúc sống thì tôi ở nhờ nhà ai chẳng được, ở đây cũng như ở trên HàNội... Nhưng lúc chết thì người thân mấy cũng làm phiền người ta. Có aimuốn một người không phải ruột rà máu mủ lại nằm chết trong nhà mình?Ngay cả cái chái bếp này cũng vậy, tôi nằm chết sẽ làm phiền đến nhàtrường, các thày các cô, các cháu học sinh... Bởi vậy mà hai năm naytôi không muốn lên Hà Nội. Ở đây, tại quê hương bản quán, tôi đã chọnsẵn chỗ để nằm chết... Chú ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây cũng nhìnthấy...”.

Tôi theo anh ra đứng trên cái trụ xi măng cầu ao cá.Gió mùa đông bắc lạnh thấu xương thổi thốc vào mặt hai anh em. Anh chỉtay về phía một búi tre gần cuối xóm, đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tređang vật vã trong gió buốt. “Đấy, dưới chân búi tre ấy có một chỗ trũngnhưng bằng phẳng, phủ đầy lá tre rụng, rất vừa người tôi... Tôi sẽ nằmđó chết để khỏi phải phiền ai... Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để cóthể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay...”

Trở vào nhà, cả người tôi nổi gai, ớn lạnh, chắc là bịcảm... Tôi dốc hết rượu ra bát uống ực một hơi chống lạnh. Rượu vào lờira, tôi cất giọng ngâm to mấy câu thơ của Phùng Cung gửi tôi mang vềtặng anh:

...Mặt va giông chớp
Rạc mái phong lưu
Gót nhọc men về thung cũ
Quỳ dưới chân quê
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lượng
Chút thổ phần bò xéo cuối thôn.

PHÙNG QUÁN - Tháng 12.1992 (4)

Phần viết thêm

Nấn ná mãi, sáng 29 Tết tôi phải rời thôn Trà Vy trởvề Hà Nội. Đạp xe ngược gió trên con đường đất sống trâu dọc bờ sôngMáng, tôi bỗng thấy lạnh kinh khủng. Hai ba lần, tôi ngoái lại nhìn lànkhói mỏng trên cái chái bếp, bên dưới làn khói đó là một bậc hào kiệtcủa đất nước đang ngồi trầm tư vì thế sự giữa một đống giẻ rách, déplốp đứt quai, đinh còng queo, chai lọ bụi bám đầy, những cái vỏ lonbia, những mẩu sắt han rỉ chẳng biết để làm gì. Hai mắt tôi tự nhiêncay lệ. Tôi chỉ muốn quay xe lại với anh nhưng sợ anh mắng. Từ chiềuhôm qua, anh giục tôi suốt: "Sáng mai chú phải về. Tết nhất đến nơi.Chú không thể để cô ấy cúng tất niên một mình như cảnh nhà những ngườigóa bụa cô đơn…"

Đăm đăm nhìn anh, tôi tự hỏi: "Trên thế gian này,không còn ai cô đơn hơn anh?". Tôi khẩn khoản: "Anh cùng về Hà Nội vớiem, ăn Tết cùng với nhà em, anh Cung có vui hơn không?". "Chú cứ vềtrước đi, chậm lắm sáng mồng hai Tết, tôi sẽ có mặt ở nhà chú hoặc ởnhà chú Cung". "Nhưng anh còn vướng víu gì ở đây mà không về cùng vớiem được?". "Chuyến này lên Hà Nội tôi sẽ ở lại. Tôi muốn tìm gặp lạianh em thời Truyền bá quốc ngữ xem ai còn ai mất, liên hệ với những anhem hiện đang sống ở nước ngoài như Hoàng Xuân Hãn. Ông ta có công lớnlắm đấy. Ông được Hội giao soạn thảo học chữ quốc ngữ theo lối mới, làmsao cho dễ học, dễ thuộc, dễ nhớ và ông đã soạn thảo rất thành công.Tài tình nhất là ông đã vần vè hoá được cách nhận diện các chữ cái :

i tờ giống móc cả hai
i ngắn có chấm, tờ dài có ngang

hoặc :

o tròn như quả trứng gà
ô thì đội mũ, ơ là thêm râu

Tôi ngạc nhiên: “Hồi còn giữ trâu ở làng quê, em họctruyền bá quốc ngữ cũng thuộc lòng những câu vần vè đó. Nhưng em thậtkhông ngờ tác giả của nó lại là nhà toán học nổi danh Hoàng Xuân Hãn”.“Đó chính là tấm lòng thương nước, thương dân của người trí thức chânchính”. Anh nói thêm: “Tấm lòng của họ đối với nước, với dân trong suốtnhư thuỷ tinh, không gợn chút bọt đặc quyền đặc lợi. Lần này lên HàNội, tôi có một mục đích là tổ chức một cuộc găp gỡ những người trướcđây tham gia Hội Truyền bá quốc ngữ. Chúng tôi sẽ ôn lại hồi ức và viếthồi ký. Mà muốn làm như vậy thì phải có

Bài viết đến đây thì dừng vì Phùng Quán bệnh nặng không còn sức để viết tiếp (**)

................................................

Chú thích:

(*): Bản in này căn cứ vào bản thảo19 trang viết tay của Phùng Quán. Một vài trang chụp thiếu một hai dòngchót. Chúng tôi phải khôi phục lại đoạn câu bị mất nhưng vẫn để trongngặc vuông (chú thích của NXB Văn Nghệ)

(1): Họa sĩ Lê Văn Đệ(theo tạp chí Bách Khoa Sài Gòn 1963) sang La Mã, được phong hoạ sư,được chính Giáo hoàng Pie XI giao cho trang hoàng điện Vatican (chú thích của tác giả)

(2): Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh sau này có thời là Thứ trưởng Bộ Xây dựng (chú thích của tác giả)

(3): Số len này lấy được ngày 19-8-1945, khi tấn công chiếm Trại lính khố đỏ ở phố Hàng Bài (chú thích của tác giả)

(4): Năm 1993, ông NguyễnHữu Đang đã được cấp nhà ở Hà Nội và được hưởng lương hưu. Bài viết nàygiúp độc giả hiểu thêm về một chi tiết cụ thể của lịch sử Cách mạngtháng Tám và tấm lòng nhà văn Phùng Quán (chú thích của NXB Văn Nghệ)

(**) Bài viết trên được Phùng Quán viết xong tháng12.1992, đến tháng 1.1995, trong lúc nằm trên giường bệnh, chưa hàilòng với những gì đã viết, Phùng Quán viết thêm bằng bút chì trong tưthế nằm ngửa viết lên giấy đặt dưới tấm ván treo úp xuống trước mặt ởđầu giường. Đây chính là những dòng cuối cùng của Phùng Quán. Di cảo dobà Vũ Thị Bội Trâm, vợ nhà văn Phùng Quán cung cấp.