Saturday, September 30, 2006

Người chiến thắng đớn đau

Nguyễn Chí Thuận
TTO - Bạn sẽ làm gì khi cánh cửa cuộc đời khép dần trước mắt? Đó là câu hỏi mà Nguyễn Chí Thuận đã từng phải đối mặt và cũng tự mình tìm ra câu trả lời.

Gần 15 năm vật lộn với bệnh tật, thậm chí đã có lúc tưởng như đã bị số phận quật ngã, nhưng tất cả những điều đó không làm anh từ bỏ khát vọng được học tập .

Đường đến giảng đường

Vào ngày tựu trường của năm học 2004-2005, tất cả tân SV của lớp Tin 5K49 Trường ĐH Bách khoa Hà Nội đều không khỏi ngạc nhiên trước một thành viên đặc biệt trong lớp: Nguyễn Chí Thuận. Ngạc nhiên không chỉ vì Thuận vào ĐH trễ hơn các bạn cùng khóa tới bảy năm mà còn bởi vóc dáng gầy guộc và từng bước đi xiêu vẹo đầy vất vả, đau đớn do cột sống bị cứng lệch cả người…

Nhưng rồi, qua hai năm học, các thành viên trong lớp Tin 5K49 đã được chứng kiến những nỗ lực của chàng trai bé nhỏ này. Sức khỏe yếu ớt, những trở ngại của căn bệnh luôn dày vò Thuận mỗi ngày cùng sự khó khăn, eo hẹp về kinh tế…. không ngăn cản được nỗ lực cố gắng học hành của Thuận để trở thành một SV có kết quả học tập khá trong lớp học “đầy những cao thủ”.

Thuận nói với chúng tôi - bằng từng tiếng nói thoát ra khỏi lồng ngực một cách khó khăn nhưng lại rất rõ ràng, tràn ngập sự tự tin và nghị lực - “Tôi không muốn lãng phí thời gian. Đã cố gắng đến được trường ĐH, thì phải tiếp tục cố gắng, học cho ra nghề chứ”…

Sinh năm 1979, là con út và cũng là con trai duy nhất trong một gia đình nông dân ở xã Minh Khai (Hoài Đức, Hà Tây), ngay từ bé Thuận đã yêu thích những công việc có tính sáng tạo. Nếu như không có bước ngoặc nghiệt ngã của số phận, có lẽ Thuận đã đạt được ước mơ trở thành một kiến trúc sư.

Nhưng đến năm học lớp 8, mọi ước mơ và hoài bão của Thuận tan vỡ khi trong cùng một năm cha Thuận qua đời, còn bản thân anh bắt đầu phải đối mặt với những triệu chứng ngày càng nặng của căn bệnh không rõ nguyên nhân, luôn khiến cơ thể đau nhức, cột sống cứng lại, cử động khó khăn dần.

Thật ra, Thuận đã bị đau từ vài năm trước, theo chẩn đoán có thể do di truyền hoặc cảm lạnh phong hàn để lại di chứng. Nhưng những cơn đau rồi cũng qua cùng với gia cảnh không có điều kiện kinh tế khiến cả nhà không ai nghĩ đến một căn bệnh nan y đang đe doạ anh. Cứ mỗi khi đau lại tiêm vài mũi giảm đau. Cho đến khi Thuận 14 tuổi, bệnh bắt đầu nặng…

Thương đứa con trai duy nhất thông minh, ham học, người mẹ đã từng cõng Thuận lặn lội đến gần hết các bệnh viện lớn của Hà Nội, thăm khám từ thầy thuốc tây y đến đông y... Ở bệnh viện nào các bác sĩ cũng có cùng một câu trả lời: Thuận đã mắc phải bệnh viêm dây cột sống dính khớp, lại là viêm đa khớp, tất cả các đốt sống đều bị. Căn bệnh này hiện nay y học chưa có khả năng chữa khỏi, chỉ có thể làm chậm sự phát triển của nó mà thôi!

Điều này có nghĩa là Thuận sẽ phải sống suốt phần đời còn lại cùng những cơn đau bệnh tật dày vò. Nhưng ngay từ lúc nhận được lời kết luận cho căn bệnh cũng là một bản án lơ lửng cho cuộc đời mình, Thuận không chán nản, buông xuôi. Anh tự xác định phải quyết tâm cùng chung sống với căn bệnh quái ác.

Không chỉ tiếp tục đi học, Thuận còn chạy đua với thời gian và bệnh tật. Thuốc giảm đau dần dần không còn tác dụng, từ chỗ Thuận chỉ đau nặng một bên hông, dần dần lan khắp nửa người trên… Thuận vẫn cố cầm cự để đến trường tiếp tục học lên THPT.

Trong suốt bốn năm trời, mỗi khi nhìn người mẹ đã hơn 60 tuổi, ngày ngày lủi thủi bán hàng tạp hoá lặt vặt lấy tiền chạy chữa và nuôi con trai, Thuận lại vượt qua những cơn đau nhức, cố gắng học bằng tất cả quyết tâm: “Mình sẽ học, phải đỗ ĐH, rồi có một công việc để có thể tự nuôi sống bản thân và đỡ đần mẹ. Không thể nào đầu hàng căn bệnh này để trở thành một người tàn tật, phải dựa dẫm, làm gánh nặng cho người khác”.

Nhưng bất hạnh không dừng lại. Căn bệnh viêm dây cột sống dính khớp với những cơn đau hành hạ càng ngày càng gia tăng, số phận đã đưa ra sự thử thách lớn nhất đầy khắc nghiệt đối với Thuận. Năm 1997, khi đang học lớp 12, Thuận bắt đầu phải nằm liệt giường. Nuối tiếc vô cùng nhưng Thuận đành phải nghỉ học vì đến lúc này, việc tiếp tục sống còn khó nói gì đến đi học. Cánh cửa cuộc đời gần như khép lại với Thuận ở tuổi 18.

Bảy năm tiếp theo là chuỗi ngày dài tưởng như chỉ còn bóng tối trong cuộc đời Thuận, nhưng cũng là những năm tháng mà nghị lực chống chọi bệnh tật của anh khiến người khác phải khâm phục.

Trong đó có những năm tháng anh bị liệt hoàn toàn phải nằm bất động một chỗ. Nằm một chỗ chống chọi với bệnh tật để có thể tồn tại nhưng Thuận vẫn luôn nung nấu “Không được để mình rơi vào đường cùng. Nếu quyết tâm và cố gắng, mình sẽ làm được cả những việc tưởng như không làm được”.

Trong khi nằm trên giường bệnh, cánh cửa duy nhất để Thuận tiếp xúc với thế giới rộng lớn bên ngoài là chiếc TV nhỏ. Cũng qua chiếc TV mà Thuận nghĩ đến một hướng đi mới cho cuộc đời: Có thể học về công nghệ thông tin và tìm kiếm một công việc phù hợp với sức khoẻ bản thân.

Người thân không thể hiểu nổi tại sao Thuận lại kiên trì tập luyện đến thế bên cạnh các biện pháp chữa trị bằng thuốc đông y và dần đi lại được. Những lúc dò dẫm được vài bước, Thuận sang nhà hàng xóm mày mò trên chiếc máy vi tính.

Thuận khám phá ra rằng mình vẫn có thể theo đuổi niềm đam mê sáng tạo cùng chiếc máy vi tính: “Tôi thấy mình cần phải thực tế hơn, gần cả cột sống đã dính hết, không thể cho phép tôi làm những công việc cần vận động nhiều nhưng có thể làm lập trình viên, một công việc phù hợp với sức khoẻ”.

Từ đó, Thuận khẳng định hướng đi tiếp của cuộc đời mình: trở thành một lập trình viên. Anh bắt tay vào ôn luyện lại kiến thức và xin đi học lại lớp 12 nhưng bị từ chối với lý do “đã quá tuổi”. Không nản, Thuận xin vào học hệ bổ túc, ngày đêm tự ôn để đi thi ĐH.

Gia đình, bè bạn cũng chỉ nghĩ Thuận học để có niềm vui chứ cũng không mấy ai dám nghĩ sau bảy năm rời xa đèn sách, chỉ bằng tự học, Thuận tốt nghiệp bổ túc THPT và trúng tuyển vào khoa công nghệ thông tin của Trường ĐH Bách khoa Hà Nội với 23,5 điểm, thừa 0,5 điểm so với điểm chuẩn của trường năm ấy. Giờ, Thuận đang bước vào năm thứ ba của cuộc đời SV.

Sống giữa những tấm lòng

Nguyễn Chí Thuận

Không nói nhiều đến những nỗ lực bản thân, Thuận luôn cho rằng anh có ngày hôm nay phần nhiều bởi đã gặp may mắn. “Cuộc sống lấy của tôi thứ này thì sẽ trả lại cho tôi một thứ khác” - Có lẽ cách nhìn cuộc sống lạc quan này đã giúp Thuận vượt qua được những cánh cửa hẹp của cuộc đời mình.

Theo Thuận, điều may mắn nhất, thứ quí báu nhất mà cuộc sống đã đền đáp cho anh chính là những tấm lòng của những người xung quanh, luôn chia sẻ, giúp đỡ anh vượt qua khó khăn. Công sức, tình yêu thương của mẹ, đối với Thuận là một nguồn động lực để anh luôn cố gắng, không đầu hàng số phận.

Nhưng ngoài mẹ, còn có tấm lòng của anh Định - một người hàng xóm đã ba năm liền bất kể nắng mưa chở Thuận đến Trường THPT Hoài Đức A cho đến ngày Thuận phải nghỉ học. Rồi bạn bè cũng khoá ở Trường THPT Hoài Đức A ngày nào, cho dù có những người trong hoàn cảnh không khấm khá nhưng luôn sẵn lòng giúp bạn một tay khi cần.

Khó khăn trong từng cử động, nói gì đến việc đi học và sinh hoạt hàng ngày nhưng Thuận có thể vượt qua ba năm đời SV trọ học ở Hà Nội nhờ có sự giúp đỡ của các em SV cùng làng đang học tại đây. Từ những ngày đầu đến giờ, Thuận vẫn sống trong sự đùm bọc của anh em cùng nhà trọ, những người sẵn sàng chia sẻ với anh từng bữa ăn, cho anh mượn chiếc máy vi tính để học bài ở nhà…

Và có một người, mà từ ba năm nay đã như bóng với hình với Thuận - người mà chúng tôi không thể không nhắc đến: Khang, bạn cùng lớp Tin 5K49 với Thuận. Bắt đầu từ sự cảm phục, Khang đã trở thành bạn thân nhất của Thuận ngay từ ngày đầu đến lớp ĐH. Coi Thuận như anh trai, ngày ngày Khang ghé qua nhà trọ đón anh Thuận đi đến trường.

Vừa như một người bạn đồng hành bền bỉ, vừa là một người em đầy tình thương yêu, những buổi học thêm, đi khám bệnh, cắt thuốc, những lần anh Thuận về quê… cũng đều là Khang đưa đón suốt gần ba năm qua. Học cùng lớp nên hai anh em càng ngày càng gắn bó, “có Khang giúp đỡ tôi như có thêm đôi chân mạnh khỏe” - Thuận nói trong sự rưng rưng cảm động - “Khang còn chưa dám có người yêu. Khang cứ bảo đợi khi nào học xong, anh Thuận có việc làm đâu vào đấy rồi tìm người yêu cũng chưa muộn vì bây giờ có “ai” lại không chăm sóc được anh đến nơi đến chốn”.

Còn theo Khang “Anh Thuận mới đáng nể, bệnh tật như vậy mà học cứ băng băng, chăm chỉ khó ai bằng. Sống bên anh Thuận, em thấy mình trưởng thành lên nhiều”.

Thuận đang học, bằng tất cả sức lực của mình, chạy đua với thời gian “vì không biết khi nào căn bệnh lại giở chứng”, để có thể hoàn thành ước mơ trở thành một lập trình viên. Thua kém bạn bè về trình độ tiếng Anh khi mới vào trường, Thuận miệt mài tự học để bù lại khoảng trống vì anh tự xác định “đã muốn làm lập trình viên, không thể không thành thạo tiếng Anh”.

Sức khỏe hạn chế, học một lúc lại mệt rũ nhưng Thuận vẫn cần mẫn, lúc nào mệt thì thay đổi bằng cách đọc sách, nghe băng tiếng Anh với sự trợ giúp của Khang. “Càng ngày tôi càng thấy việc lựa chọn ngành học này và mục tiêu trở thành một lập trình viên là đúng đắn. Tôi hi vọng tốt nghiệp ra trường có thể tìm được một công ty nào đó nhận vào làm việc để có thể tự nuôi sống bản thân và mẹ bằng chính sức lao động của mình” - Thuận trầm ngâm “Vẫn biết là sẽ khó khăn hơn mọi người, cơ hội ít, yếu thế hơn khi cạnh tranh xin việc nhưng tôi tin là mình sẽ làm được”.

Hai anh em cũng hi vọng qua những lần lang thang trên mạng có thể tìm được những thông tin về căn bệnh này để giúp Thuận duy trì cuộc sống, hi vọng một ngày nào y học có thể tìm ra phương pháp chữa bệnh cho Thuận…

Chúng tôi có may mắn gặp Thuận vào dịp Thuận được hội lưu học sinh tại Pháp trao một suất học bổng Đồng hành dành cho những SV vượt khó. Thuận cũng mới có thêm một “người bạn đồng hành” nữa, Trung tâm Đào tạo lập trình viên quốc tế Aprotrain-Aptech trao tặng Thuận một học bổng với mong muốn hỗ trợ Thuận đạt tới ước mơ trở thành lập trình viên của mình.

Nhưng có lẽ những sự trợ giúp đó chưa đủ. Hai anh em Thuận - Khang đang bàn tính với nhau làm thủ tục vay tiền ngân hàng để Thuận có thể trang trải sinh hoạt phí và mua một chiếc máy tính. “Cũng chẳng còn giải pháp nào hơn, hàng tháng đều mất một khoản tiền để cắt thuốc, chữa bệnh, chi phí cho việc học ngành CNTT đến năm thứ ba ngày càng nhiều hơn, sức mẹ tôi không còn kham nổi. Bạn bè cùng lớp cấp 3 vẫn bảo sẽ giúp nhưng không thể nhờ bạn đến khi tốt nghiệp được” - Thuận giãi bày- “Nếu phải tìm cách vay tiền ngân hàng để học, tôi cũng vay. Rồi sau này đi làm kiếm tiền trả dần chứ không bao giờ bỏ dở việc học”.

Với câu hỏi “Bạn sẽ làm gì khi cánh cửa cuộc đời khép dần trước mắt?”, Nguyễn Chí Thuận đã có câu trả lời của mình “Đừng bao giờ bỏ cuộc. Hãy làm tất cả những gì có thể để tự mở cánh cửa cuộc đời mình”.

THANH HÀ

Monday, September 25, 2006

Những đứa trẻ mưu sinh lúc 0 giờ


TT - Khi bạn bè đồng trang lứa đi vào giấc ngủ với những ước mơ thần tiên thì cũng là lúc những đứa trẻ tại chợ đầu mối Bình Điền (P.7, Q.8, TP.HCM) bước vào cuộc mưu sinh mới.

Bóng học trò trong đêm

Niềm vui nhận tiền công bằng bọc cá nhỏ - Ảnh: Vương Hằng Sa

“Nó chăm chỉ lắm, mỗi đêm làm cho ba, bốn xe”. Câu nói có vẻ nhát gừng của mấy anh thanh niên ngồi cạnh xe cá khi thấy tôi có vẻ tò mò về đứa trẻ đang hì hục xúc từng mẻ cá từ trên xe xuống thùng. Chiếc áo thể dục in dòng chữ “THPT Lương Văn Can”, hai bàn tay nhăn nheo vì ngâm nước quá lâu. Một mình em kham hết vựa cá trên xe 65K... rồi lại qua xe 54S...

Nhiều người cho biết ở chợ đêm này khá nhiều học trò tham gia mưu sinh. Năm nay lên lớp 9 Trường Nguyễn Văn Linh (quận 7) nhưng Huỳnh Tấn Hứa đã tham gia “đội quân” chợ cá tại chợ Bình Điền từ lâu rồi. 18g Hứa đã có mặt tại chợ, làm quần quật đến 1g sáng thì trở về nhà. Ngủ. 6g ôm cặp đi học. Học xong về ngủ tiếp chờ đến giờ đi làm. Thân hình gầy gò, giơ từng cái xương sườn trong miếng nilông được cắt, cột khá cẩn thận. Chân mang ủng. “Mẹ em trang bị cho để đỡ ngứa nhưng cũng chẳng đỡ hơn bao nhiêu”. Vừa nói Hứa vừa lấy tay gãi sột soạt và chỉ “những đốm hoa” trên người rỉ máu. “Ngại nhất là lúc vào lớp học, cả người em bốc lên mùi cá tanh nồng. Em thường xuống bàn cuối ngồi một mình để không ảnh hưởng tới các bạn. Đến em đôi lúc còn chịu không được huống gì các bạn”.

Em mong một giấc ngủ ngon

Càng về khuya, Trung tâm Thương mại Bình Điền - chợ đầu mối được xem là lớn nhất nước ta, rộng 46ha - càng huyên náo. Tiếng còi xe vào bãi, tiếng gọi giao hàng ơi ới làm huyên náo đêm khuya. Mưa càng về khuya càng nặng hạt. Gió thổi. Lạnh. Không để ý, bọn trẻ nói chuyện với tôi ban nãy vẫn cặm cụi làm việc như thể trên đời không còn chuyện nào ngoài xúc cá, lượm cá, phụ việc cho các hàng rau trái. Mặc trời mưa, Hứa, Hữu Trường, Lý Anh Tài... vẫn hò nhau xúc cho xong xe cá. Mấy đứa khác tranh thủ lúc xe cá của mình chưa vào thì tụ tập lượm cá văng ra để chủ vựa thưởng cho. Đứa trẻ nào cũng gầy gò, ở trần giơ bộ xương sườn. Miếng nilông vẫn không ngăn nước từ trong vựa cá dính ướt người. Cơ thể tím tái vì mưa lạnh, bàn tay đứa nào cũng rúm ró, nhăn nheo đến tội nghiệp.

Hầu hết những đứa trẻ “lấy đêm làm ngày” tại Trung tâm Bình Điền đều làm công việc như một người lớn. Mỗi xe khoảng 3,5 tấn cá, mỗi đêm chúng xúc khoảng 7 tấn cá. Cá biệt có em làm tới bốn xe, tức gần 14 tấn cá. Hứa, Kha, Trường... thì thường mang những con cá to được chủ thưởng về cho mẹ sáng hôm sau đem ra chợ bán kiếm vài chục ngàn. Tài, Trường... thì tự “giải quyết” cho những người bán cá lẻ ngay lúc đó. Bán giấc ngủ đêm, mỗi đứa kiếm được vài chục ngàn đồng bằng cách như thế.

“Những ngày mới bắt đầu công việc, khắp người nổi mẩn ngứa. Tiền đi làm về toàn để mua thuốc, sau quen nên chẳng bôi gì cả. Về tới nhà sau 3-4g sáng, tắm xong lên giường ngủ” - Kha vừa nói vừa xoa hai bàn tay vào nhau cho bớt lạnh. “Em chẳng có ước mong gì cả, chỉ mong ngày nào chủ vựa cũng thuê để kiếm được vài chục ngàn phụ mẹ và mong được một đêm ngon giấc như mọi người” - nói xong Tài lấy mũ sùm sụp che lấy khuôn mặt hốc hác, tranh thủ ngồi ngủ bên vựa cá, đầu ngoẹo một bên thật tội nghiệp. Giấc “ngủ ngồi” giữa lúc chờ mối xe thứ hai vào bến của Hứa có lẽ em đang mơ đến cái giường và tấm chăn ấm. Đồng hồ đã chỉ sang ngày mới hơn hai giờ đồng hồ từ lúc nào.

VƯƠNG HẰNG SA

Sunday, April 23, 2006

Ông Mười và “ngôi nhà xích lô”

Đã gần 20 năm rồi ông Mười vẫn ngồi trên "ngôi nhà xích lô" của mình - Ảnh: Nguyễn Bình

Tuoi Tre Online - Ông Mười sống trên chiếc xích lô đã gần 20 năm rồi, kể từ ngày bán nhà chạy lo thuốc thang cho bà Mười.

Sức lực của tuổi ngấp nghé 90 không cho phép ông đạp xe kiếm sống nhưng ông vẫn giữ chiếc xích lô để sống với hoài niệm về người vợ và chờ ngày ra đi bằng tình thương của bà con xóm nghèo...

Anh Tư, anh Được xe ôm ở ngã ba Trần Khắc Chân, Trần Khánh Dư (Q.1, TP.HCM) lo lắng khi đưa tôi đi tìm ông Mười : “Mới sáng nay còn thấy ổng đậu xe dưới tán cây bên bờ kênh Nhiêu Lộc đó mà, hổng biết ổng đi đâu rồi, hay là lại mất xe nên đi kiếm?”.

Tìm mãi mới thấy ông Mười đang đậu xe trong con hẻm 59, ông cười móm mém: “Nắng nóng quá nên tui lùi xe vô đây cho mát một chút mà”. Tìm được ông, anh Tư, anh Được mới thở phào tất tả chạy đi bắt khách. Bà con lao động khu xóm Miễu - Tân Định (Q.1, TP.HCM) ai cũng xem ông Mười như bà con ruột thịt.

Nghèo vậy mà chị bán rau tan chợ về vẫn giúi cho ông một, hai ngàn đồng; anh xe ôm hôm nào chở được khách nhiều cũng đưa ông đi ăn tô phở bò hay đĩa cơm tấm; còn mấy anh ở công ty ngay ngã ba Trần Khắc Chân - Trần Khánh Dư hễ gặp là hỏi thăm, cho tiền, cho áo quần, chăn mền... Anh Được xe ôm nói: “Tui chưa từng thấy ai khổ như ông Mười, tuổi cao như vậy mà mười mấy năm ngủ ngồi trên xích lô!”.

Ngày trước vợ chồng ông Lê Văn Đặng (ông thích mọi người gọi theo tên vợ là Mười) tuy không có con cái, nhưng sống trong căn nhà đầu hẻm ở xóm lao động ven bờ kênh đen với nhiều kỷ niệm đầm ấm, đầy ắp tình thương. Rồi những năm 1980 - cái thời bao cấp khốn khó, bà Mười lâm bệnh nặng, ông phải bán căn nhà đầu hẻm để tìm mua căn nhỏ hơn, nằm sâu trong hẻm hơn để có tiền mua thuốc tây chợ đen cho bà Mười.

Bà Mười đã có tuổi nên ngày càng yếu dần, gánh nặng cơm áo càng nặng hơn trên vai ông Mười. Bà con kể khi bà Mười trở bệnh, ông đạp xe tới tận khuya, tìm đón những người khách cuối cùng trên phố để có tiền lo thuốc thang cho vợ. Hôm đạp xe về tới nhà, nghe bà con đã đưa bà Mười đi cấp cứu, ông tất tả đạp xe sang Bệnh viện Nhân Dân Gia Định ngay và khi nghe bác sĩ cho biết bà Mười bị bệnh nan y, chuyện sống chết chỉ tính từng ngày từng tháng, ông Mười như muốn xỉu.

Để lưu giữ hình ảnh xích lô, Saigontourist đã có đề án lập đội xe xích lô cao cấp chuyên phục vụ du khách hoạt động tại khu vực trung tâm

Sài Gòn. Tại Hà Nội, Hội An, Huế... cũng đã có những đội xe xích lô chuyên phục vụ du khách. Các nước trong khu vực cũng giữ gìn hình ảnh xe kéo, xe lôi, xích lô... bằng việc duy trì khai thác theo hướng phục vụ du lịch.

Ông vào phòng bệnh nắm tay bà và nói: “ Bà phải sống, bà ơi...”. Gia tài người đạp xích lô có gì đâu ngoài chiếc xe ba bánh cà tàng! Suy nghĩ suốt đêm, sáng ra bà con xóm Miễu thấy ông Mười gọi người tới bán căn nhà. Thuốc đặc trị mắc cỡ nào, nghe ở đâu có thuốc quí là ông Mười không ngần ngại đạp xe tìm mua cho bằng được.

Những ngày ấy ông giấu kín chuyện bán nhà lo thuốc thang, có lúc bà Mười tỉnh táo hỏi ông chuyện cơm nước, nhà cửa... ông chỉ cười bảo: “Mình tui ăn uống cái gì cũng xong mà, bà yên tâm dưỡng bệnh đi...”. Cả năm trời bà Mười nằm viện thì ngần ấy thời gian ông Mười phải ngủ ngồi trên chiếc xích lô.

Bao năm vật lộn với bệnh tật, bà Mười trút hơi thở cuối cùng trên tay ông Mười vào đầu năm 1990, ông khóc như chưa bao giờ được khóc. Tiền bán nhà lo thuốc thang điều trị cho vợ gần cả năm đã cạn kiệt, chỉ vừa đủ thuê nhà đòn làm ma chay và đưa bà Mười đi chôn cất ở nghĩa trang Gò Dưa. Ông Mười trở về sống cô độc trên ngôi nhà - xích lô của mình, mãi dằn vặt vì đã không đủ sức cứu sống người vợ thương yêu...

Gần 20 năm ngủ ngồi trên xích lô

Không ai có thể tin rằng người đàn ông đã gần 90 tuổi này lại có thể ngủ ngồi trong suốt gần 20 năm dài đăng đẳng. Bà con chỉ biết những đêm mưa to gió lớn họ lại nghe tiếng ông Mười kéo xe kẽo kẹt trên phố vắng đi tìm những hàng hiên lớn để tránh mưa, ngày nắng đổ lửa lại thấy ông lụi hụi kéo xe đi tìm những tán cây có bóng mát hay những con hẻm nhỏ xíu chui vào để trú thân.

Ngồi trên xích lô hoài cũng mỏi, trưa nay ông Mười tìm cho mình một giấc ngủ trưa dưới hàng hiên - Ảnh: Nguyễn Bình

Ông Mười bảo: “Thường thì tui cũng ít ngủ vì đêm lạnh quá ngủ không được, thôi đành thức tới sáng luôn, vợ tui nằm ngoài kia còn lạnh hơn mà”. Hồi trước, địa phương thấy ông Mười không nhà không cửa nên đưa ông vào nhà dưỡng lão Thị Nghè, nhưng chỉ một thời gian ngắn ông lại xin ra. Ông kể lể: “Tui ở xóm này quen nhà quen cửa rồi, mình không có nhà nhưng mỗi sáng nhìn thấy bà con lối xóm đi ra đi vào cũng ấm cái bụng”.

Anh Được xe ôm cho biết: “Ông Mười cũng có một đứa cháu xa nhưng tính khí thất thường, lâu lâu có tiền cũng tìm sang mua cho ông ít thức ăn, còn khi hết tiền thì cũng mò sang xin tiền ông, tụi tui cự nự hoài hà. Khổ đến vậy mà bọn xấu còn lấy trộm xích lô của ông đến mấy lần. Không hiểu chiếc xích lô đáng giá bao nhiêu mà lấy cắp làm chi cho tội ổng.

Trong thùng xe cũng chỉ có hai bộ đồ, cái mền cũ và tấm nilông che mưa thôi chứ có tiền bạc gì đâu. Không xe, nên ông Mười mấy phen phải nằm dưới đất ngủ, tụi tui lại gom góp mỗi người một ít tiền đi mua cho ổng chiếc xe khác, vì sống trên xe lâu ngày quen rồi, tìm cách đưa ổng vô nhà là ổng cự liền”.

Hồi còn khỏe, cứ lâu lâu ông Mười lại được bà con gom góp cho ít tiền lên Gò Dưa thăm mộ bà Mười; sau này yếu quá bà con lại hùn tiền cho ông bốc mộ đưa bà Mười về chùa Vạn Thọ. Ông vui lắm, bảo với tôi: “Từ hồi đưa bả về chùa tui lên thăm hoài, cứ ngày rằm là tui mua ít nhang đèn, mấy thứ trái cây mà hồi trước bả thích ăn để lên chùa trò chuyện với bả...”.

Tình làng xóm lo lắng cho ông là vậy, nhưng phần lớn đều là người lao động nghèo của xóm kênh nước đen Nhiêu Lộc ngày trước nên ai cũng bù đầu lo toan với cuộc sống, nhiều khi quên bẵng đi, có lúc hai ba ngày trời ông Mười cứ ngồi đó trên xích lô mà không có hột cơm, chẳng màng tắm rửa...

Năm nay ông Mười đã bước qua tuổi 87. Ông vẫn một thân một mình sống thui thủi trên “ngôi nhà xích lô” của mình. Có người cho biết ông đã trăng trối: một sáng nào đó ông ra đi thì nên đưa ông vào chùa Vạn Thọ cho ông có bạn có đôi với bà Mười.

Nhưng ông trời vẫn chưa muốn ông Mười ra đi, chiếc xích lô của người phu xích lô còm cõi vẫn lặng lẽ bên đường chờ ngày về với người vợ thương yêu. Thân phận chiếc xích lô cũng buồn như chính cuộc đời của người phu xe già cả này…Ngày mai có còn ai thấy xích lô trên đường, và ngày mai có còn ai thấy ông Mười trên phố vắng...

Còn có một người đàn bà, chị sinh ra ở làng Vạn Phúc, nhưng chị bảo “mà nào có phúc, đói vàng mắt từ tấm bé”.
Chị vốn là vợ của người phu xe, nhưng phận nghèo đưa đẩy… Một câu chuyện không có nước mắt, chỉ có mồ hôi của một ý chí và máu của lòng dũng cảm.

NGUYÊN THẢO

(source: http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=126530&ChannelID=89)

Người đàn bà đạp xích lô

Chị Đặng Thị Thuận trên chiếc xích lô bên cạnh xưởng gỗ, nơi chị hay chở thuê hàng tạ gỗ súc
Tuoi Tre Online - Những cơn gió mùa đông bắc thổi ù ù, vậy mà người đàn bà ấy vẫn phong phanh chiếc áo mỏng tang. Dựng chiếc xích lô bên hè nhà, chị ấp úng: “Vâng tôi Thuận đây, mời anh vào nhà uống chén nước, từ sáng đến giờ chẳng chạy được cuốc xe nào, trời rét không ai gọi xe cả...”.

Vợ người phu xe

Chị kể: “Tôi bất hạnh ngay từ bé anh ạ, sinh ra ở làng Vạn Phúc mà nào có phúc, đói vàng mắt từ tấm bé. Cả nhà có hàng chục miệng ăn mà ruộng hợp tác chia có năm sào. Từ thời còn bé tí tôi đã theo thầy mẹ ra đồng.

Vụ tháng năm còn kha khá, một sào cũng kiếm được gần hai tạ, bữa cháo bữa cơm qua ngày. Đến tháng mười là đã lo đói, mỗi sào trúng lắm cũng chỉ một tạ lúa, mùa đông cả nhà khoai sắn cho qua cái đói. Học hết lớp 7 là tôi phải nghỉ học để đi cày thuê cuốc mướn quanh vùng...”.

Chị tên Đặng Thị Thuận, người làng Vạn Phúc, thôn Do Lộ, Hà Đông, Hà Tây. Anh Khai chồng chị Thuận là phu xe xích lô. Ở làng quê mọi người ít đi xe nên xe chủ yếu để chở mướn gỗ, lúa gạo, vật liệu xây dựng cho bà con quanh vùng. Cái khổ cứ quấn lấy gia đình bé nhỏ này quanh năm suốt tháng nhưng cả bốn đứa nhỏ lớn lên đều được học hành tử tế. Anh Khai bảo: “Đời làm phu xe khổ lắm, chắc không còn cái khổ nào hơn, nên tôi ráng lo cho bọn trẻ mai sau...”.

Vậy mà trời vẫn không thương. Một buổi chiều tháng 5-2000 sau chuyến chở bốn tạ gỗ từ ga Hà Đông về, anh Khai nằm vật ra giường sốt cả đêm và không thể trở dậy nổi. Chị Thuận thức đợi sáng mượn tiền lối xóm đưa chồng đi bệnh viện. Bác sĩ bảo anh Khai bị bệnh cột sống rất nặng do đạp xe quá sức, nếu như anh cứ tiếp tục đạp xe sẽ nguy hiểm đến tính mạng. Đưa chồng về nhà, chị Thuận tất tả đi khắp xóm vay mượn để lo thuốc thang cho chồng. Hễ nghe nơi đâu có bài thuốc hay chữa bệnh cột sống là chị đội nón đi ngay.

Bao lần có người làng vào gọi anh Khai đi chở hàng, mấy lần anh Khai lồm cồm ngồi dậy định dắt xe đi, nhưng chị đều ngăn lại. Anh Khai thều thào: “Nếu có chết thì vẫn chưa chết ngay được, nhưng bọn trẻ cần cái ăn mỗi ngày...”. Rồi một sáng tháng 6-2000, khi anh Khai thiếp đi sau một đêm thức trắng vì đau, có người vào gọi: “Ông Khai có nhà không, có chở gỗ đi ga Vạn Phúc?”.

Chị Thuận đang thái rau lợn sau nhà, buột miệng lên tiếng: “Có, có đấy, bác chờ em với...”. Chị vội lên nhà mặc chiếc áo lính của chồng, đội chiếc mũ cối và dắt chiếc xích lô ra. Người thuê chở đứng nhìn chị từ đầu đến chân và hỏi: “Đàn bà mà đạp xe là thế nào đây?”.

Chị đáp ngay: “Chồng em bỏ nghề rồi, em thay anh ấy, bác chở bao nhiêu gỗ em vẫn lo được thôi”. Hai tạ gỗ súc, chỉ bốc lên xe xích lô thôi đã thấy choáng váng hết cả người, chưa bao giờ đạp xe, chị Thuận chọn cách đẩy bộ cho chắc ăn. Ra đến ga Vạn Phúc, thả gỗ xuống xong là chị xây xẩm cả mặt mày, nhưng khi người ta chìa ra 15.000 đồng tiền công thì chị bừng tỉnh lại ngay: Vậy là có cách mưu sinh nuôi cả nhà rồi!

Không chỉ ở Do Lộ, Vạn Phúc mà còn cả Hà Đông, thậm chí lên tận Hà Nội người ta luôn bất ngờ khi thấy trong đội ngũ phu xe có một người phụ nữ. Phu xe nam chở gì thì người đàn bà này chở nấy, không từ nan bất cứ hàng hóa gì, từ lúa gạo, gỗ súc, sắt thép, ximăng...

Ban đầu chỉ 1-2 tạ, sau 4-5 tạ, 1 tấn... Ximăng 1 tấn chở đến tận chân công trình người ta trả 15.000 đồng, thợ bốc vào 5.000đ, thì chị Thuận xin nhận 20.000đ để làm chân bốc vác luôn.

Chị Thuận kể: “Một lần nhìn thấy bên kia đường có một chị phụ nữ đạp xích lô chở mấy đứa trẻ đi học, tôi mừng lắm vì nghĩ mình đã có đồng nghiệp rồi. Sau này tôi mới biết chị ấy ở La Ba cũng nghèo khó như tôi, nhưng chỉ đạp xe có một thời gian ngắn là nghỉ vì cái nghề phu xe nhọc nhằn quá!”.

Người đàn bà đạp xích lô và bé Thanh - cô con gái học sinh giỏi nhiều năm liền
Người đàn bà dũng cảm!

Mùa hè nắng như thiêu đốt, mùa đông mưa phùn rét mướt, vậy mà chưa một ngày nào chị Thuận bỏ một cuốc xe. Cứ tờ mờ sáng thổi cơm cho chồng con xong là chị dắt xích lô ra quốc lộ đón khách chở hàng.

Bình thường mỗi ngày đạp xe 30-40km kiếm cũng được 30.000 đồng, ngày đắt khách được trên 40.000đ, nhiều người cám cảnh người đàn bà khốn cùng này nên thường cho thêm 5.000 - 10.000 đồng, nhưng cũng có ngày mưa bão không kiếm được đồng nào. Rồi có một lần tai nạn ập đến đã tưởng chừng như cướp đi sinh mạng của người đàn bà này...

Nhận chở đến năm tạ gỗ ra chợ Hà Đông khi tất cả nam phu xe đều lắc đầu lè lưỡi chào thua - chị Thuận đang cần tiền lo thuốc thang cho chồng. Do gỗ quá nặng nên xe gãy bánh đổ nhào, chị ngã xuống đất, hai súc gỗ to đùng đổ ập chẹt vào đầu chị làm toác nửa mảnh da đầu, lòi cả sọ trắng.

Người đi đường xúm vào cứu người bị nạn, không ai nghĩ người đàn bà này sẽ qua cơn nguy kịch. Khi tỉnh dậy, chị Thuận thấy mình đang nằm trong phòng cấp cứu Viện Quân y 103. Người thuê chở gỗ cũng có mặt, ông ta trả tiền công cho chị 15.000đ và bồi dưỡng thêm 10.000đ rồi đi mất.

Tai nạn thập tử nhất sinh vậy mà chỉ hai tháng sau, khi da đầu và tóc vẫn chưa kịp mọc trở lại, chị Thuận lại dắt xe đi chở hàng, đầu quấn chiếc khăn to để che mảng da đầu còn đỏ hỏn - chị cần kiếm tiền trả nợ...

Tháng 5-2005 một biến cố khác lại ập đến, nhưng lần này không do tai nạn mà do chị dũng cảm lao vào nguy hiểm: sau khi chở ba tạ gỗ ra ga Vạn Phúc, đã giữa trưa nhưng chị Thuận vẫn chạy dọc theo quốc lộ 6 để kiếm thêm mối hàng.

Đi ngang qua một cửa hiệu tạp hóa, chị linh tính điều chẳng lành khi thấy một thanh niên ăn mặc rất lịch sự nhưng mặt mày bặm trợn cứ đi qua đi lại chỗ hai chiếc xe máy dựng trước cửa hiệu khiến chị bất giác nghĩ ngợi: “Con xe này cũng phải hàng chục triệu, mất nó chắc chủ nhân đau lòng lắm !”.

Ngay lúc đó tên cướp đã “bắn” bay ổ khóa và dắt nhanh chiếc xe máy xuống đường chuẩn bị phóng đi, chị Thuận lao ngay vào ôm chầm lấy tên cướp và la to: “Cướp xe... cướp xe...”. Tên cướp móc dao nhọn trong người ra đâm túi bụi vào mặt chị Thuận, máu tuôn đầm đìa nhưng chị quyết không buông tên cướp. Lúc bà con xúm vào trói gô tên cướp cũng là lúc chị Thuận ngất lịm đi vì mất nhiều máu...

Sau này, Công an tỉnh Hà Tây khi đến trao bằng khen cho chị vì hành động dũng cảm bắt cướp mới cho chị hay: đó là tên cướp khét tiếng có đến năm tiền án từ Hà Nội xuống Hà Đông đánh cướp.

...Đang ngồi trò chuyện với chị Thuận thì bé Thanh vừa đi học về. Mặt cô bé xanh mét vì lạnh, chào khách xong là đi thẳng xuống bếp phụ mẹ lo cơm cho cả gia đình. Chị Thuận nhìn con trìu mến: “Cái Thanh học lớp 8, cả ba năm qua đều là học sinh giỏi nên trường miễn giảm học phí rất nhiều, khỏi phải lo gì.

Đứa con gái đầu đã lấy chồng, còn cái Nhàn đang học trung cấp ở Hà Nội, Duy Văn thì học lớp 3. Được cái trời cho tôi sức khỏe, trông tôi gầy vậy chứ không hề đau ốm gì, chỉ tội cái đầu từ hồi bị lột da do tai nạn xe nên trời lạnh là đau nhức ghê lắm…”.

Có tiếng người í ới ngoài ngõ gọi mai đi chở hàng sớm, chị Thuận vui ra mặt vì cả mấy ngày qua trời lạnh nên ít người gọi phu xe...

Không chỉ có một người, còn có cả một “đội quân” chạy xích lô đông đảo và chuyên nghiệp. Trên vùng đất biển này, họ độc chiếm nghề này khi những người đàn ông đang phải lênh đênh trên những con thuyền...

NGUYÊN THẢO

(source: http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=126710&ChannelID=89)

Chuyện cổ tích về số phận kỳ lạ của một người đàn bà

(Tien Phong Online)

Gánh con ra chợ cầm nợ, nung đỏ dao tự chặt cả bàn tay... Vượt lên những đau khổ ghê gớm của cuộc đời, giờ Hằng "hủi" sống hạnh phúc bên... bờ ao nhà mình.

Chị đưa tay rót nước. Tôi bỗng giật mình khi nhìn thấy đôi bàn tay cụt hết ngón, sần sùi, sứt sẹo, đôi chỗ vẫn còn rớm máu... Gần cả một đời, người đàn bà “khó đôi bàn tay” này đã nếm trải trăm đắng, ngàn cay mà có lẽ các nhà tiểu thuyết cũng không tưởng tượng ra nổi một số phận kỳ lạ như vậy. Nghe chị kể mà tôi gai người, để rồi tin rằng ở đời vẫn còn chuyện cổ tích...

“Khúc dạo đầu” của số phận

Năm 1967, thời điểm cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn cực kỳ ác liệt, sau khi tốt nghiệp Đại học Tài chính Kế toán, cô gái trẻ Trần Thị Hằng được cử vào miền Nam công tác. Trên đường đi, vướng phải mìn chị suýt chết trong gang tấc. Nhưng chiến tranh thực sự in dấu ấn khủng khiếp vào đời chị khi nó cướp mất đứa con trai đầu lòng mới tròn 2 tuổi.

Năm 1970, sau cơn sốt rét thập tử nhất sinh, chị được điều ra Bắc làm ở Cục Thu bội chính (Bộ Tài chính). Năm 1972, đang ở Hoài Đức (Hà Tây), chị bị trúng bom Mỹ. Tuy không nguy hiểm đến tính mạng, nhưng sức khoẻ suy giảm nghiêm trọng, buộc phải nghỉ việc về quê chồng. Từng ấy biến cố đối với người đời có thể xem là bất hạnh rồi, nhưng với chị đó mới chỉ là “khúc dạo đầu” của số phận...

Cuộc sống ở Bắc Ninh quê chồng khốn khó đến nỗi chị phải gửi Tú Anh - Đứa con trai còn đi chưa vững - về quê Thái Bình cho bà ngoại nuôi. Những tưởng, nghèo khổ sẽ khiến vợ chồng thương nhau hơn, nhưng người chồng không chấp nhận cảnh “râu tôm nấu với ruột bầu”, đã bỏ chị đi theo một người đàn bà khác.

Mang thai đứa con thứ ba được 8 tháng, ngày nọ chị bỗng thấy lên cơn sản giật đau quằn quại. Một người phụ nữ thương tình đã đưa chị đi bệnh viện cấp cứu. Bệnh viện chỉ cứu được mẹ, còn đứa con hơn 8 tháng tuổi đã chết khi chưa kịp nhìn thấy ánh sáng mặt trời...

Từ bệnh viện trở về, đập vào mắt người mẹ vừa mất con là một sự thật phũ phàng khác: Quần áo chị đã bị người nhà chồng đốt sạch. Đến nước ấy, chị chỉ còn mỗi con đường về quê với mẹ.

Nhưng về quê, chính quyền địa phương lại nghi ngờ chị “trốn chúa lộn chồng” nên bắt trở lại Bắc Ninh. Chị cứ sống cảnh chơi vơi, không hộ khẩu, bị đưa đi đẩy lại như thế trong một thời gian dài.

Người mẹ già đang ở với chị gái. Không chốn nương thân, chị lấy 5 cây chuối kết thành bè, dựng lên đó túp lều lợp bằng cỏ môi, lênh đênh trên mặt ao hoang vắng.

Mùa đông rét căm căm. Ban đêm chị để đứa con trai bé bỏng nằm trên người, ôm chặt lấy nó, tự biến mình thành chiếc lò sưởi mặc cho gió lạnh lùa tứ bề. Trời mưa to, nước tuôn xuống túp lều rách nát, chị lấy chiếc nón mê đội lên đầu con, còn mình đành chịu ướt.

Nước quyện với bồ hóng trên mái nhà rơi xuống, nhuộm đen cả mặt chị. Có lúc, nước mắt hoà với nước mưa lẫn bồ hóng, chảy thành dòng trên đôi gò má gầy guộc. Nằm mà nơm nớp lo chiếc bè chuối có thể bị chìm bất cứ lúc nào.

Chẳng biết chia sẻ cùng ai, trong nỗi cô đơn cùng cực, người đàn bà ấy đã làm những câu thơ như thế này: “Túp lều nát rùng mình trong giá rét; Chiếc nôi nghèo run rẩy giữa đêm giông; Ai sẽ về chăm lo? Chẳng còn ai nữa hết; Tội nghiệp nỗi cô đơn trong đêm tối khóc thầm”.

Gánh con ra chợ cầm nợ

Chị đọc cho tôi nghe bằng một chất giọng tưởng như có thể gọi cả đêm đông ấy về đây. Rồi chị nói: “Hồi đó, chị Dậu còn sướng hơn tôi vì có đàn chó để bán. Ở đã thế, kiếm miếng ăn còn cơ cực gấp mấy lần...”.

Hàng ngày, từ túp lều, chị đặt Tú Anh vào một đầu quang gánh, đầu còn lại bỏ vào hòn đá cho cân, rồi quảy ra chợ. Đến chợ chị đưa thằng con trai đi cầm nợ để lấy chịu của người ta mớ rau, ít cà chua đem bán, với lý lẽ như thế này: “Cháu không có vốn, nên đặt đứa con ở đây cho bà tin, bà cho lấy ít hàng đi bán kiếm chút tiền đong gạo. Bán xong sẽ về trả tiền và xin lại con. Cháu chẳng phải chửa hoang đâu, chẳng qua bị chồng ruồng bỏ”.

Cứ thế, Tú Anh trở thành một thứ “vốn lưu động” giúp hai mẹ con sống qua ngày. Đi bán hàng ở chợ Rồng (Nam Định), xa quá không về nhà được, đêm chị bỏ con vào bao tải, còn mình ngồi canh cho con ngủ, muỗi đốt đỏ chi chít cả mặt. Những nốt muỗi đốt trông như một trời sao.

Thời ấy, nước máy khan hiếm, chị có thêm nghề đi xếp nước thuê. Đứng xếp hàng mấy tiếng đồng hồ, người ướt nhoẹt, chỉ được trả có vài xu. Đứng xếp hàng từng đêm như thế, chị mơ mình sẽ có một ngôi nhà nho nhỏ cho hai mẹ con trú nắng trú mưa. Ước mơ đó có vẻ như quá xa vời khi mà để mua một chiếc bếp thổi giá có 8 đồng mà 2 năm rưỡi chị mới trả xong nợ.

Nhưng rồi, sau bao đêm ngồi bên bao tải canh cho con ngủ, sau bao đêm ướt sũng xếp hàng thuê, cuối cùng chị cũng dành dụm được một khoản tiền mua cái ao hoang hoá, nơi bao năm nay “chứa chấp” chiếc bè chuối của hai mẹ con. Cái ao giá 2 triệu đồng, chị phải vay nặng lãi 1 triệu đồng, 10 năm sau mới trả xong, lúc đó số nợ đã lên tới 10 triệu đồng.

Ngày đi làm, đêm chị lặng lẽ gánh đất về lấp ao. Chiếc ao rộng, nước sâu, từng gánh đất nhỏ nhoi đổ xuống tan biến đi, giống như “dã tràng xe cát biển Đông”. Nhưng rốt cục thì đó cũng chẳng phải “công dã tràng”, một góc ao đã biến thành đất bằng, đủ để dựng nhà.


Chị Hằng kể về đời mình

“Dựng nhà”, hai từ đó nghe mỉa mai làm sao khi mà trong tay chị không có lấy một đồng. Nhưng người đàn bà ấy biết mình phải làm gì. Cả ngày buôn thúng bán mẹt ngoài chợ, trời chập choạng tối, chị lại gánh đá đổ ở điếm đầu làng, rồi từ đó “tha” về chiếc bè chuối.

Âm thầm gánh đá trong đêm như vậy, có những lúc buồn ngủ, đòn gánh bật ra đập vào mặt chị thâm tím. Nghĩ đến đứa con trai đói ăn, chị còn “đa mang” đi gánh thuê cát vàng, gánh cả một thuyền cát chỉ được cho vay 13 bơ tấm, nhưng sau đó phải trả bằng gạo.

Nung đỏ dao, tự mình chặt cả bàn tay

Ngôi biệt thự đang xây của chị Hằng
Gánh đủ đá, chị đào đất đóng gạch. Đôi tay đàn bà mềm yếu ấy đập đá, nhồi đất dẻo dai như tay lực điền. Nhưng một ngày nọ, chị bỗng thấy những ngón tay của mình ngắn lại, mòn đi, nhiễm trùng đang hoại tử. Những ngón tay phải đập đá, đào đất quá nhiều, đã lâm "trọng bệnh”.

Lúc đó, vì chưa có hộ khẩu nên không được vào bệnh viện, chẳng còn cách nào khác, chị bỗng nghĩ ra một kiểu “điều trị” khủng khiếp: nung đỏ con dao sắt, kê ngón tay lên viên gạch và nghiến răng chặt!

Khi ngón tay đã đứt lìa, nhọ nồi hoà với vôi đã được chuẩn bị sẵn, chị run rẩy bôi vào vết chặt. Choáng váng, chị ngất đi vì đau. 1 ngón tay, 2 ngón tay, 4, 5 ngón tay... lần lượt lìa khỏi bàn tay chị theo cách “trung cổ” đó. Bàn tay trái chặt ngón tay phải, bàn tay phải chặt ngón tay trái. Cho đến khi không còn ngón tay để cầm dao nữa! Mỗi ngón tay bị chặt lìa là một lần chị ngất lịm.

Tôi rùng mình khi hình dung ngón tay đứt lìa, vôi trộn bồ hóng bôi vào vết chặt còn đầy máu ấy. Bất giác tôi nhìn sang đôi bàn tay cụt ngón của chị, nó đã liền sẹo nhưng vẫn toát lên cái gì đó nhẫn nhịn mà kiên gan.

Họa vô đơn chí, sau khi đôi bàn tay cụt hết ngón, dân làng bắt đầu xì xào đồn thổi chị mắc bệnh phong. Rồi cũng chẳng dừng lại ở đồn thổi nữa, một ngày nọ, dân quân đến trói nghiến chị lại, bồng súng giải chị đi bệnh viện như giải một kẻ tội đồ.

Tại bệnh viện, vị bác sỹ già sau khi khám, đã khẳng định chị không mắc bệnh phong. Dẫu có mắc bệnh, chị cũng không nhập viện được vì chưa có hộ khẩu. Người đàn bà đó bị trả về với 10 viên thuốc Tetaxilin giá trị tương đương 10 buổi đi chợ. Nhưng trong mắt của nhiều người, chị vẫn là hủi, và cả hai mẹ con đã “lãnh đủ” sự kỳ thị, xa lánh.

Tú Anh đang học lớp 3 đã bị chúng bạn réo tên gọi: “Đồ con hủi”, thậm chí có kẻ còn dọa giết chết đứa bé ngây thơ này. Điều đó làm chị đau đớn hơn cả lúc cầm dao chặt vào ngón tay mình.

Vẫn túp lều cỏ trên bè chuối, nhưng đôi tay đã cụt ngón, lại phải “gánh” thêm cái tiếng hủi, trong một phút tuyệt vọng chị viết một bức thư tuyệt mệnh gửi mẹ dặn: “Con chết rồi, mẹ gửi Tú Anh vào trại mồ côi, đừng đưa nó về với bố nó”.

Chị đi ra bãi sông Thái Hạc tự tử. Lúc đang chấp chới trong dòng nước thì ông lão thuyền chài đã nhanh tay kéo chị lên. Sau khi nghe rõ sự tình, ông lão bảo: “Ta sẽ cho con 1000 đồng để con có chút vốn làm ăn. (1000 đồng lúc đó tương đương 1 tạ gạo). Đừng bao giờ nghĩ đến tìm đến cái chết nữa. Sống khó, chết dễ lắm, vô nghĩa lắm”.

Từ bến sông về nhà, chị phải nghỉ 8 lần, niềm tin vào cuộc đời, tình người tưởng như đã tắt ngấm trong chị, nay được ông lão thuyền chài thắp lên, bừng sáng.

Về nhà, chị đưa Tú Anh lên Nam Định học để tránh đi sự xa lánh của bạn bè. Chiều chiều cậu bé học xong lại đứng ở góc chợ đợi mẹ, đêm thật khuya hai mẹ con mới dám về túp lều, rón rén như người mang tội. Thế rồi, trong đêm khuya khoắt, đôi bàn tay cụt ngón của chị lại tiếp tục đập đá, nhồi đất đóng gạch. Như có phép lạ, trong vòng mấy năm với đôi tay tật nguyền ấy, chị đã đóng được 16 vạn gạch mộc!

Không đủ tiến mua than, chị bán gạch mộc cho người ta, chỉ để lại 4 vạn viên, thuê người nung, xây móng, xây tường nhà, còn mái nhà thì phải chờ đến lúc có tiền mới đổ. Ngôi nhà đang dang dở thì chị ốm một trận “thập tử nhất sinh”.

Những năm tháng dằng dặc bị đọa đày, ăn đói, mặc rét, làm việc quá sức khiến chị bị liệt nửa người. Chỉ duy nhất đàn gà đáng giá, Tú Anh cắp hai con to nhất, năn nỉ người xích lô chở mẹ vào bệnh viện cấp cứu. Người ta nghĩ rằng chị sẽ chết, bàn cách khi chôn phải rắc thật nhiều vôi bột để trừ tận gốc bệnh phong.

Vùng vẫy trong vô thức, người đàn bà đó muốn thét thật to: Tôi còn sống, tôi muốn sống! Chẳng biết ông trời có thấu tỏ hay không mà sau 4 tháng vật vã với bệnh tật, chị đã dần khoẻ lại.

Đục một cái lỗ dưới nền nhà, chị rang lạc, rang ngô cho Tú Anh đi bán ở các rạp hát, bến thuyền. Hôm nào hàng ế, hai mẹ con ăn ngô, lạc trừ bữa. Tú Anh chỉ có duy nhất một bộ quần áo, ban đêm về túp lều phải ở truồng cho mẹ giặt, phơi khô để ngày mai mặc tiếp.

Chị cũng chẳng hơn gì, đêm cũng đành “vận” một bộ đồ rách như tổ đỉa. May thay, trong lúc bi đát đó, chị mua chịu được một đôi lợn. Đôi lợn được coi như “vật cứu tinh” của 2 mẹ con, nhưng đến lúc xuất chuồng, rao bán lại không ai thèm mua “lợn của hủi”.

Chị phải gọi người ở xa đến bắt vào ban đêm, chịu thiệt với giá bán rẻ bằng một nửa giá bình thường. Có tiền, lại mua đôi lợn khác, vừa vỗ thịt vừa chăm lợn nái đẻ. Cứ thế, đàn lợn ngày một sinh sôi.

Chị tát ao, lội xuống bùn ngang ngực, cấy lúa, còn trên bờ trồng rau muống. Lúa tốt bời bời, một số người trước đây coi khinh chị là “hủi” giờ lại đến vay thóc về ăn.

Nhưng niềm vui không gì so sánh được của người đàn bà ấy là đứa con trai duy nhất học rất giỏi và thi đậu vào trường ĐH Kinh tế Quốc dân. Sóng gió tưởng như đã qua bỗng dưng lại ập tới: Năm thứ 2 đại học, Tú Anh bị thiếu ôxy não, sinh độc tố trong máu. Chị lại đưa con trai đi hết bệnh viện này đến bệnh viện khác để chạy chữa.

Ròng rã 9 tháng trời, bao nhiêu tài sản vừa được gây dựng đã tan theo bước chân của 2 mẹ con từ Bắc vào Nam. Ngày Tú Anh khỏi bệnh, số nợ của chị lên tới 73 triệu đồng.

Nhưng kể từ khi được ông lái đò cứu mạng, chưa một lần người đàn bà ấy tuyệt vọng, trở về với “máng lợn”, chị lại nuôi lợn thả cá, làm vườn, một mình con tiếp tục ăn học và chăm sóc mẹ già.

Vào những năm 1992 - 1993, trong chuồng nhà chị có tới 75 con lợn, một ao cá và 4 sào ruộng. Vẫn đôi bàn tay cụt ngón ấy làm tất cả mọi việc: băm bèo, nấu cám, cuốc đất...

Có vốn, chị đi buôn vàng, bất động sản, kiến thức của một người từng tốt nghiệp ĐH Tài chính Kế toán khoá đầu giúp chị thành công trong nhiều thương vụ. Ông trời có vẻ như đã mủi lòng trước người đàn bà có sức sống kỳ lạ này, Tú Anh ra trường, đi làm, lấy vợ sinh con.

Hạnh phúc bên bờ ao nhà mình

Xã Hoàng Diệu thuần nông của thành phố Thái Bình bỗng mọc lên một ngôi biệt thự hiếm hoi. Tuy biệt thự đang xây nhưng người ta đã đặt câu hỏi: Của ai? Của một Việt kiều, một giám đốc, một đại gia nào chăng? Rồi người ta ngớ ra: biệt thự của Hằng “hủi”, người đàn bà từng gánh con ra chợ cầm nợ để đổi lấy ít rau dưa bán kiếm ít tiền sống qua ngày.

Biệt thự nằm bên bờ ao, gần túp lều rách nát dựng trên bè chuối ngày xưa. Chị cười rạng rỡ, nói với tôi: “Tôi định không làm ngôi nhà này đâu, nhưng cuối đời mình cũng có một nơi ở rộng rãi để đón bạn bè tới thăm. Ngôi nhà này có một ít tiền của tỉnh Thái Bình góp vào để xây nhà tình nghĩa cho mẹ tôi. Mẹ tôi năm nay tròn 100 tuổi. Tôi là con liệt sỹ, nhưng bao năm bị đọa đày, có ai nhớ đến đâu”.

Chị Diễm, vợ của Tú Anh đang chơi với hai đứa trẻ đẹp như thiên thần ở ngoài sân. Một thời, hai vợ chồng làm ăn khó khăn, chính chị Hằng đã động viên con dâu đi học ĐH Sư phạm Thái Nguyên, để giờ đây Diễm đã là cô giáo. Còn Tú Anh trở thành Giám đốc một Cty TNHH làm ăn phát đạt.

Dù đã khá giả, nhưng chị vẫn tự tay băm bèo chăn lợn, không thuê người làm, khu ao rộng 1000 m2 được kè bờ xi măng, thả cá trê, baba. Rau trái đầy vườn, mùa nào thức ấy, không tấc đất nào bị bỏ hoang.

Chị nói với tôi rằng sau khi ngôi biệt thự hoàn thành chị sẽ đi làm từ thiện, sẽ cưu mang những đứa trẻ thơ mồ côi, lang thang cơ nhỡ, phải bán lạc rang, nằm bao tải như Tú Anh ngày xưa. Chị sáng tác nhiều thơ, những bài thơ thấm đẫm tình người, tình đời và luôn kết thúc có hậu.

Ra về tôi nắm chặt bàn tay của người đàn bà ấy. Đôi tay cụt ngón đã tự mình viết nên một câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp.

Phùng Nguyên

(source: http://www.tienphongonline.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=12834&ChannelID=2--------komoi
)

Ra đi và mang về... (7)

Vào cuộc cạnh tranh toàn cầu...

LS Lê Công Định sinh năm 1968, cử nhân luật ĐH Quốc gia Hà Nội, cử nhân luật ĐH Tổng hợp TP.HCM, cao học luật ĐH Tổng hợp Tulane, Hoa Kỳ. Thành viên Đoàn LS TP.HCM, thành viên Hiệp hội LS Hoa Kỳ; thành viên hội đồng đại diện cho VN, Hiệp hội LS châu Á - Thái Bình Dương. Hiện đang giảng dạy về luật VN cho SV quốc tế trong chương trình trao đổi giữa khoa luật ĐH Cần Thơ và ĐH Tổng hợp Pantheon - Assas (Paris 2), hiện là LS thành viên Công ty DC Lawyers.

TT - Thông tin mới nhất của luật sư (LS) trẻ này là anh đã tách ra khỏi một công ty luật hàng đầu của VN để thành lập một công ty luật mới với kế hoạch “trong sáu tháng nữa sẽ thành công ty luật mạnh và trong tương lai gần sẽ thành một tập đoàn LS mạnh trong khu vực”.

Ý tưởng mới nhất anh gửi cho tôi qua mail: “Sẽ chờ cơ hội lập một trường đại học luật tư nhân”... Lại thêm một câu chuyện khó tin từ LS Lê Công Định.

Từ tầng hầm của phòng chưởng khế Sài Gòn

Năm 1989, Định mới ra trường, vào làm việc ở Phòng Công chứng số 1. Ngoài công việc phụ tá cho công chứng viên, Định biết tiếng Pháp nên được giao thêm việc thống kê sắp xếp kho tài liệu dưới tầng hầm của tòa nhà 89 Nguyễn Du. Đó vốn là trụ sở của phòng chưởng khế Sài Gòn trước 1975.

Sáng công tác chuyên môn, chiều làm trong kho tư liệu. Vừa làm vừa tò mò đọc xem thời trước người ta hành xử công việc pháp lý như thế nào. Càng đọc, Định càng sửng sốt khi những kiến thức của một cử nhân luật như mình lại không hiểu hết một văn bản pháp lý của nền hành chính cũ. Trong đầu Định một ý nghĩ lớn dần: trước đây VN từng có một nền văn minh pháp lý rất chuẩn mực.

Cũng thời điểm đó, LS Triệu Quốc Mạnh tập hợp những nhân vật rất giỏi luật của Sài Gòn mở lớp luật ở ĐH Tổng hợp TP.HCM với tiêu chí dạy “theo tinh thần pháp lý thế giới”. “Tôi nghĩ mãi rồi quyết định bỏ việc để đi học tiếp”. Lúc qua trường luật xin xác nhận điểm để miễn một số môn, một thầy giáo cũ biết chuyện tròn mắt hỏi: “Mày có khùng không mà đi học cái lớp vớ vẩn?”.

Nhưng trong cái lớp học ấy, LS Triệu Quốc Mạnh có những bài giảng nổi tiếng về tinh thần pháp lý thế giới; thầy Võ Phúc Tùng (tiến sĩ luật bảo vệ luận án cuối tháng 4-1975) làm Định say mê với “khế ước và nghĩa vụ” theo chuẩn mực của Pháp. Thầy Lương Văn Lý dạy rất hay về công pháp quốc tế... Đó là những giáo sư giỏi nhất chuyện “hạ đo ván” sinh viên trong các kỳ thi.

Càng học, Định thấy hiểu rõ hơn những gì anh đọc trong căn hầm của phòng chưởng khế hồi xưa. Thầy Tùng tạo một ấn tượng lớn từ kiến thức uyên bác cho tới tư cách trong cuộc đời. Có thời điểm khó khăn, phải đi sửa đồng hồ kiếm sống nhưng ông vẫn vô tư: “Học tiến sĩ khó cỡ nào còn học được thì nhằm nhò gì những cái đơn giản này!”. Ông nhận Định làm học trò dạy tiếng Pháp.

Suốt tám năm trời, hai thầy trò cặm cụi ba buổi tối mỗi tuần. Mỗi buổi học xong hai giờ ngôn ngữ, thầy trò lại xoay qua bàn chuyện văn chương Pháp với Victor Hugo, Alexandre Dumas... Có bữa cúp điện, hai thầy trò đốt đèn dầu, mồ hôi nhễ nhại. Chính cái vốn tiếng Pháp dưới ánh đèn dầu này đã tạo điều kiện cho Định vào làm ở văn phòng luật Coudert Brothers. Vị LS đại diện văn phòng này ở Sài Gòn vì mê tiếng Pháp của anh mà nhận vào. Năm đó Định 26 tuổi. Rồi một bước ngoặt mới: suất học bổng đi Pháp...

Đến Paris và Columbia…

“Trước những năm 1997, tôi nghiên cứu luật trong nước, thấy luật mình còn thiếu nhiều quá, muốn làm một điều gì đó nhưng kiến thức không có. Tôi thèm một chuyến đi du học Pháp. Nhưng hồi đó, những suất học bổng chỉ có cán bộ ngành tòa án hoặc người ngoài bộ mới được. Rồi năm 1997, lần đầu tiên người ta cho các đoàn LS dự tuyển các suất học bổng. Tôi bước chân ra khỏi đại sứ quán mà như bay trên mây với suất học bổng ngành luật của Trường đại học Tổng hợp Pantheon - Assas (Paris 2).

Vài tháng sau, một ngày đang lang thang ngao du ở châu Âu, có một tin vui không kém: tôi giành được học bổng Fulbright đi Mỹ. Thông tin này thay đổi nhiều thứ với tôi.

Sau vài tháng học ở Paris, tôi nhận ra đại học Pháp thời điểm đó vẫn là sự kéo dài của hệ thống thực dân cũ: trì trệ, bảo thủ. Năm 1998-1999 mà cả trường chỉ có hai máy photo, mượn một đống sách từ thư viện phải mất 3-4 giờ đồng hồ chờ đợi để photo. Giáo sư thì như một vị thánh trên giảng đường, bắt học thuộc lòng y như ở VN chứ không dạy về tư duy pháp lý.

Tôi tranh thủ học thêm một khóa triết của Trường đại học Sorbonre theo lời khuyên của thầy Tùng (“Phải biết căn bản triết học để hiểu nền luật pháp”), đến tháng 5-1999 tôi rời Paris, bỏ luôn những môn thi cuối cùng của bậc thạc sĩ (vào cuối tháng 6-1999) để sang Mỹ học cao học luật ở ĐH Tulane - Columbia”.

“Tôi ủng hộ án lệ!”

Đó là câu đầu tiên và là sợi chỉ xuyên suốt câu chuyện của LS Định. Anh mang ra hai quyển Quyết định giám đốc thẩm của hội đồng thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao năm 2003 -2004 (đó là những bản án ở cấp giám đốc thẩm sửa sai các vụ án khó ở tòa cấp dưới và được xem như một ví dụ về việc áp dụng các điều luật khi xét xử những vụ án tương tự như vậy) rồi nói một cách tự hào: “Đây là một bước rất nhỏ của án lệ tại VN!”.

Do những đặc thù của VN, án lệ là một quãng đường đầy khó khăn và nhiều tranh cãi. Trong một bài viết trên bản tin đoàn LS tháng 7-2003, LS Định thẳng thừng: “Phán quyết của tòa án hiện nay thường thiếu chiều sâu và sự uyên bác trong nhận định và phân tích các vấn đề pháp lý cụ thể. Một số thẩm phán đôi khi phải đưa ra những lời giáo huấn đạo đức không cần thiết cho các bị cáo hoặc các bên tranh chấp nhằm khỏa lấp những khuyết điểm đó”. Cứ thế, cái cách nói đôi khi gay gắt của chàng LS trẻ này khiến không ít người khó chịu.

Và sự “nổi tiếng” của LS Định lại là sự “khùng”. Không ít lần anh từng bị các quan chức một bộ nhắn gửi: “Thằng đó khùng hay sao mà tuyên bố này nọ hoài”. Đó là khi anh truy đến cùng các nguyên nhân khiến luật chưa ra đời đã trở nên lạc hậu: “Bộ luật dân sự của Napoléon xây dựng cách đây 200 năm; Bộ luật dân sự Đức xây dựng cách đây 100 năm - không hề được sửa bởi trước đó những bộ luật này đã kế thừa được hệ thống luật bất thành văn của hàng ngàn năm trước và quan tòa, khi xét xử, nếu thấy không phù hợp thực tế bèn giải thích theo thực tiễn để thay đổi tinh thần của nó.

Đó là sửa luật theo án lệ. Tức nền tảng luật phải bắt nguồn từ cuộc sống và ở các nước, chỉ có quan tòa là người duy nhất giải thích luật, còn ở ta ai muốn giải thích cũng được cả. Nó làm cho luật pháp mất tính thống nhất và vị trí độc lập của quan tòa không cao. Chúng ta có quá nhiều luật nhưng nhiều khi “không xài được” hoặc vừa thông qua đã “chết” rồi vì thiếu tính thực tiễn. Tôi ủng hộ án lệ và chắc chắn luật về án lệ sẽ giải quyết được những điều mà trong thực tiễn chưa có.

Ở VN, người ta có thể trả lại đơn kiện và nói: luật chưa có, Quốc hội chưa ban hành, tôi không xử được. Nhưng ở nước ngoài, người ta sẽ kiện ngay quan tòa vì tội không ban phát công lý”.

Tạm gác giấc mơ tiến sĩ

“Hồi xưa tôi mê luận án tiến sĩ và từng sưu tầm hàng trăm cái ở Paris, từng được chọn làm nghiên cứu sinh tiến sĩ ở Tulane nhưng rồi về nước, một đam mê khác lấn dần vào công việc hằng ngày của tôi: gầy dựng một công ty luật mình thích, góp phần gầy dựng tinh thần thượng tôn pháp luật từ cộng đồng tới doanh nghiệp và cả chính quyền. Tham gia các vụ việc với chính quyền thành phố hoặc các công ty lớn của Nhà nước... tôi thấy vui nhất là ý thức các vị đã có những thay đổi rất rõ. Vụ VN Airlines, vụ Liên đoàn Bóng đá bị thua kiện và mất tiền ở nước ngoài… đã làm người ta giật mình.

Mới đây, trong một cuộc họp của UBND TP.HCM, tôi ngồi nghe ông Nguyễn Văn Đua chỉ đạo: “Làm gì thì làm, phải tuân thủ những qui định pháp lý, tránh để bị kiện” mà thấy mừng. Đã có những vụ mà chính quyền không thể đơn thuần ra quyết định hành chính, ví dụ thành phố “thuê lại quyền sử dụng” công viên 23-9 từ nhà đầu tư nước ngoài. Mà chuyện đó đâu đơn giản: họ cử LS, quăng sách luật ra bàn, cãi nhau tóe lửa...

Tôi nhớ lại LS Đặng Khải Minh, một Việt kiều nhưng tinh thần của ông thì hết sức VN, tìm mọi cách nâng đỡ và vun vén cho LS Việt, ông khuyên chúng tôi phải chuẩn bị hết mọi điều kiện để LS VN mình có thể sánh ngang với khu vực và thế giới khi tham gia cạnh tranh toàn cầu. Chúng tôi vừa làm vừa học, vừa đào tạo những LS trẻ để họ nâng tầm. Giờ đây chúng tôi có thể sang Singapore hay bất cứ quốc gia nào tham gia các vụ kiện, có thể tranh cãi từng từ ngữ với các LS, buộc họ sửa cả văn bản tiếng Anh hay đưa ra các ý kiến pháp lý trong các hợp đồng mua bán, tài trợ... tầm quốc tế cho khách hàng VN.

VN hiện tại chỉ có khoảng hai văn phòng luật đủ mạnh để làm chuyện đó. Tình trạng cạnh tranh cũng đang làm cho LS VN yếu thế thay vì phối hợp để nâng tầm trên trường quốc tế. Ước mơ lớn nhất của tôi là mở một trường đại học luật tư thục đào tạo kiến thức hiện đại và thực tế phục vụ cho phát triển. Nó sẽ hoạt động theo xu hướng như một trung tâm nghiên cứu sản sinh ra các học thuyết pháp lý - chuyện rất quen thuộc ở nước ngoài. Ta không làm mà khoanh tay nhìn là muộn lắm đó!...”.

Nhiều người đã ra đi và nhiều người đã trở về, với một hành trang đầy đặn và một khát vọng về các cuộc chơi lớn cùng bạn bè quốc tế. Mỗi người trong họ đi trên những con đường khác nhau để cùng gặp nhau trong một nỗ lực.

NGUYỄN VĂN TIẾN HÙNG

(source: http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=124610&ChannelID=89)

Ra đi và mang về... (6)

“Chạy” cùng người Nhật

Tẩu và vị giáo sư người Nhật trong ngày nhận bằng tốt nghiệp

TT - Ngô Văn Tẩu bảo bây giờ mà nhắm mắt lại anh thấy một điều duy nhất: “Năm năm nữa, tên của Công ty RunSystem phải được niêm yết trên thị trường chứng khoán Tokyo!”.

Chuyện của Tẩu nhiều lúc cứ lưng tưng như một cái gì đó không tin được trong cuộc đời này: từ một miền quê nghèo, đi du học thành thạc sĩ ngành công nghệ thông tin và trở về trong một ước mơ lớn: cạnh tranh cùng người Nhật.

Quê nghèo

Một ngày của hơn 11 năm trước, nghe tin thằng con mình sẽ sang Nhật Bản học, bà mẹ quê ở vùng Tứ Kỳ (Hải Dương) cứ đi ra đi vào nhấp nhổm. Tẩu đi Nhật học và bà ở nhà bệnh cả năm trời. Suốt tám năm nơi đất khách quê người, nỗi ám ảnh lớn nhất trong đầu Tẩu là bữa cơm chỉ có đĩa rau muống với chén mắm cáy và hai ông bà già nhà quê tuổi lục tuần ngồi héo hon trông con về. Nghĩ tới đó nước mắt Tẩu trào ra...

Ngày đậu Đại học Bách khoa, Tẩu thấy mình làm được tí “công trạng” đầu, còn ngày giở tờ giấy báo thấy tên mình ghi đầu tiên trong bảng kết quả đậu học bổng đi Nhật, tay chân cứ run bắn lên và trong đầu chỉ có một ý nghĩ: vậy là giải phóng gánh nặng tiền nong cho cha mẹ rồi...

Nhà nghèo, hết năm học lớp 5 Tẩu thi đậu học sinh giỏi trường xã, huyện rồi lên tỉnh học lớp 6 trường chuyên. Cứ mỗi cuối tuần bố đạp xe lên tỉnh đón Tẩu về. Tẩu ở ký túc xá (KTX) và đóng tiền ăn bằng gạo, quảy gạo lên đóng thẳng cho nhà bếp. Học đến giữa năm lớp 7 thì phải bỏ chạy về trường xã vì... hết tiền để đi học xa như vậy. Đến đầu năm lớp 8, đi thi học sinh giỏi lần nữa và lại đậu vào trường chuyên.

Không còn con đường nào khác, đành vác bị gạo lên trường học nữa. Những ngày ở KTX Tẩu chuyên môn kiếm thêm cơm cháy mà ăn. Ăn mãi, ăn mãi đến năm học thứ nhất của đại học thì phải đi mổ bao tử. Bác sĩ cấm ăn cơm trong nửa năm, mỗi ngày cho ăn năm bữa, toàn cháo.

Vào đại học có một chuyện làm Tẩu ức không chịu được: con gái của một vị trưởng phòng trong trường, học lực cũng xoàng thế mà đùng một cái, sau học kỳ đầu được đi du học ở Úc. Tức quá, liệu mình không cần là con trưởng phòng thì có đi du học được không? Lao đầu vào học như điên. Học quên cả ngày đêm. Sinh nhật, lũ bạn kéo đến phòng chúc mừng thì thằng Tẩu “ngố” lại đang ngồi trong thư viện. Bạn bè bảo “điên”. Thi toán, lý, hóa... bằng tiếng Anh. Có hai tờ giấy báo kết quả, mở tờ thứ hai không thấy tên mình, hoảng hốt; mở tờ đầu ra thấy tên mình đầu tiên, sướng như trên mây.

Lần đầu tiên bước chân tới Tokyo, cảm giác Tẩu nhớ nhất là: “Sao mình không được sinh ra ở một đất nước giàu có như thế này?”. Rồi chàng trai ấy được đưa vào nhận phòng trong KTX, Tẩu không thể tin rằng mình có thể được ở một phòng. Lần đầu tiên trong đời cậu biết thế nào là máy lạnh, tủ lạnh, bàn làm việc, tivi và... điện thoại. Choáng ngợp. Ý nghĩ lạ đến trong đầu Tẩu: “Sẽ học, học tới tiến sĩ rồi ở lại luôn cho đã!”. Nhưng chỉ một thời gian sau Tẩu chợt hiểu ra: cái vùng quê nghèo có bữa cơm rau luộc chấm mắm cáy của hai ông bà già mới là nơi mà Tẩu thuộc về.

Đường về trên xứ Phù Tang

Đầu tiên là học một năm tiếng Nhật, sau đó vào học khoa “software engineering” (kỹ sư phần mềm) của Cao đẳng Kỹ thuật Hakodate (Hokkaido). Với phương tiện học tập được trang bị “tận răng” so với VN thì chương trình cao đẳng đối với Tẩu là... xoàng. Rồi cậu sinh viên người Việt đoạt giải nhất trong cuộc thi toán học “Mathematics contest” của năm trường thuộc khối cao đẳng kỹ thuật của Hokkaido.

Rồi cơ hội mở ra lớn hơn khi chàng trai này rời phương Bắc lạnh giá của nước Nhật để về thủ đô Tokyo học chuyển tiếp đại học ở Trường đại học Điện tử thông tin Tokyo và lập tiếp một kỳ công: giải ba toàn nước Nhật của một cuộc thi lập trình cho siêu máy tính.

Đó là cuộc thi “Parallel progamming contest” với đề tài “Mô tả sự chuyển động của phân tử”. Người thi phải dùng thuật toán để tính toán sự chuyển động của phân tử rồi cho chạy trên một hệ thống gồm tám máy tính, chương trình nào chạy nhanh hơn sẽ thắng. Chương trình của Tẩu chỉ thua Đại học Tokyo và một trường nữa. Giải 3 của cuộc thi này là tiền đề cho chàng trai người Việt được chọn vào nhóm nghiên cứu đề tài cấp quốc gia của Nhật ở bậc thạc sĩ.

Ở đó, hằng tháng Tẩu phải vừa nghiên cứu, vừa báo cáo dự án với nhóm làm việc gồm các thầy ở Đại học Tổng hợp Tokyo, ĐH Công nghiệp Tokyo và nhóm kỹ sư Mitsubishi. Các giáo sư người Nhật muốn Tẩu tiếp tục hoàn tất nghiên cứu sinh tiến sĩ ở công trình này nhưng đó là lúc anh quyết định ra về...

Bước ngoặt đến với Tẩu là sau một khóa học khởi nghiệp ở bậc đại học. Khóa học “Venture business” do các giám đốc doanh nghiệp và nhà trường tổ chức, người ta hướng việc nghiên cứu kết hợp với làm kinh tế. Một cánh cửa mở ra, Tẩu muốn thử xem người Nhật đã làm mọi thứ như thế nào. Rồi nộp đơn thi tuyển vào NECSoft, một công ty phần mềm hàng đầu của Nhật thuộc Tập đoàn NEC. Thi đỗ thứ hạng cao và được mời về làm việc tại TP.HCM với mức lương khởi điểm 1.200 USD, còn ở lại Nhật thì mức lương gấp đôi.

Cuối cùng là một quyết định mới: không vào làm ở tập đoàn lớn mà phải tìm các công ty vừa tầm, mang tính đặc trưng của Nhật lại có thể giống với VN để học thử. Đó là một quyết định mà tới giờ nhìn lại Tẩu vẫn cho là mình đã “mạo hiểm”, một cơ hội rất nhiều người mơ ước đã được bỏ qua nhưng nó không làm Tẩu ân hận. Trong khi bạn bè thi vào các công ty lớn: Hitachi, Toshiba, Sony... thì có một Ngô Văn Tẩu mày mò đi làm kỹ sư cầu nối cho Digital Research, một công ty phần mềm cỡ vừa. Anh có mục đích riêng của mình: coi cách thức mà người Nhật điều hành một công ty “cỡ vừa” như thế nào...

Chạy về tương lai

“Tôi học và đi làm bán thời gian để kiếm tiền và hiểu cách thức người Nhật hành xử trong quan hệ kinh doanh. Từng chi tiết nhỏ phải được chú trọng, người Nhật có thể quan hệ với bạn lần đầu và nếu thích, mãi sau này họ sẵn sàng đặt hàng chỉ vì có tên bạn trong danh sách của công ty đó.

Kỷ luật công việc và những đòi hỏi nghiêm túc từ sản phẩm khiến người ta không được xao nhãng bất cứ lúc nào. Dù sản phẩm làm ra ở bất cứ nơi nào nhưng đã làm cho Nhật thì chất lượng phải đảm bảo “made in Japan”. Người Nhật thích những người hiểu biết về văn hóa họ. Một năm đủ để tôi học và chuẩn bị cho sự ra đời của một công ty gia công phần mềm cho người Nhật”.

Nó ra đời đúng vào ngày 1-4-2005, bạn bè bảo Tẩu phao tin đồn nhảm, chắc ít ai tin Tẩu hình thành công ty mình chớp nhoáng như chính cái tên của nó: RunSystem. Ngày kết thúc hợp đồng với Digital Research cũng chính là ngày bắt đầu cho công ty mới khi hai khách hàng Nhật đang ngồi chờ chuyến bay của Tẩu từ Sài Gòn ra Hà Nội. Cuối cùng thì RunSystem đã chạy, nói như Tẩu: “Run to the future!” (Chạy về tương lai). Ít ai biết rằng Tẩu đã từng thấy mình trơ trọi với ý tưởng về nước thành lập một công ty bởi rủ... không ai thèm về.

Ai cũng ngại, họ sợ lỡ quay về VN thì không trở lại Nhật được nữa. Ai cũng muốn đi làm, tìm cái visa vĩnh cửu rồi tính tiếp. “Đó là thời gian mà tôi thấy đơn độc dễ sợ. Nhưng nếu mình không làm, ai cũng không làm thì làm sao có chỗ để rủ rê bạn bè trở về? Chẳng lẽ ai cũng đi làm thuê hoài? Cuối cùng quyết định: làm và phải làm thành công để chứng minh với mọi người. Tôi chọn mô hình: chơi theo kiểu Việt, làm theo kiểu Nhật”.

Đó là công ty mà không ai biết đâu là giám đốc, đâu là lính bởi giám đốc ngày thường chỉ mặc áo thun, quần jean, ngồi sà vào làm tất cả mọi công việc, cáng đáng cả phần công việc mà nhân viên chưa biết hoặc chưa làm được. Buổi tối, có khi cả giám đốc lẫn lính chui vào trong căn phòng nhỏ ngủ phờ phạc như nhau.

“Đây là công việc sáng tạo, mình mà vác bộ mặt trịnh trọng, làm ra vẻ, anh em bị ức chế sao làm được”. Con số 23 kỹ sư phần mềm trong hơn nửa năm đã “đi nhanh hơn” so với dự định của Tẩu. Và 90% kỹ sư ấy vốn gốc từ nông thôn ra, thậm chí có người hiện còn đi xe đạp. Công ty có một phòng để mọi người làm việc khuya có thể ở lại, giám đốc là người ở lại nhiều nhất. Công việc suôn sẻ bước đầu kéo theo nhiều cái suôn sẻ khác: có một người bạn rất giỏi ở Nhật đã đồng ý trở về vào năm sau.

Tẩu đang vào chương trình học tiếng Nhật cho nhân viên, đến năm tới sẽ cho một số kỹ sư sang Nhật học tiếng, nhằm đào tạo nguồn kỹ sư cầu nối. “Sáu tháng nữa, trong tay tôi phải có 4-5 kỹ sư có tiếng Nhật ở trình độ 1-3. Và tham vọng lớn: sau năm năm nữa con số kỹ sư sẽ phải là 1.000 người”. Tẩu đang từng bước hướng về mục tiêu lớn này.

“Mỗi khi mệt mỏi hay nản lòng, tôi nghĩ đến bố mẹ, vậy là hết mệt, phải ngồi dậy bước tiếp thôi”. Có lẽ Tẩu là một người nặng lòng. Và có lẽ là một trong số ít ỏi những sinh viên du học đã làm được công việc “trọng đại” trong đời: nhín học bổng, đưa bố mình sang đất nước Phù Tang “du hí” một tháng trời. Ông cụ cả đời gắn với ruộng đồng, giờ sang Nhật cứ chặc lưỡi xuýt xoa: “Ôtô nó còn nhiều hơn thóc nhà mình”; đi chơi về cứ sướng tít mắt mà kể cùng chòm xóm: “Gớm, tôi sang Nhật người ta đón như nguyên thủ quốc gia vậy”. Vậy là Tẩu thấy sướng lắm rồi...

Đó là một con người hay thay đổi, đã học ở nhiều nơi và làm nhiều công việc, đã yên ổn nơi này lại bỏ sang nơi khác, đã thành công lại thích bắt đầu... Anh vừa tách ra khỏi một công ty luật hàng đầu ở VN để thành lập một công ty luật mới để nuôi giấc mơ lớn nhất: mở ra một trường đại học luật tư thục...

NGUYỄN VĂN TIẾN HÙNG

(source: http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=124374&ChannelID=89)

Ra đi và mang về... (5)

Giấc mơ tiếp thị hình ảnh VN

Phi Vân: “Kế hoạch lớn nhất trong tương lai của tôi là một chiến lược tiếp thị hình ảnh VN. Tôi có dự định làm nó và tặng không cho Tổng cục Du lịch. Đó là vì tôi khát khao một hình ảnh mới, một cách thức mới, một nụ cười mới của VN. Bầu trời trước mặt tôi là một lớp trẻ VN đầy đủ kiến thức và năng lực quản lý không thua kém bất kỳ người nước ngoài nào. Họ sẽ góp phần cho tương lai VN!”. - Ảnh: Thanh Đạm

TT - Hãy hình dung đến một cô gái ngang tàng, dám bỏ mọi êm ấm ở VN, mang theo trong người sáu tháng tiền học và ba tháng tiền ăn, cô một mình đi học. Vật lộn với mọi thứ khó nhọc xứ lạ quê người, cô đã leo lên “đỉnh” của những công việc mà chính nhiều người Úc cũng khát khao. Rồi đùng một cái, cô trở về...

Phi Vân nói cô khao khát một hình ảnh mới của VN.

Tay trắng... lên đường

Ý định đi du học chỉ bắt đầu khi kinh tế châu Á khủng hoảng vào những năm 1997, 1998. Lúc này tôi đang là giám đốc marketing của khách sạn Saigon Star. “Tình hình chắc sẽ còn kéo dài, chờ hết khủng hoảng thì biết khi nào. Sao không tận dụng cơ hội này để đi học thêm?”. Lúc ấy, trong đầu tôi cứ đến giai đoạn sau khủng hoảng kinh tế, khi các nhà đầu tư nước ngoài trở lại châu Á và VN, mình sẽ có gì trong tay để làm việc ngon hơn bây giờ? Vậy là thôi, bỏ chức mà đi học vậy. Tôi đi Úc.

Ai cũng cho rằng tôi rất liều mạng khi bước chân lên một đất nước xa lạ mà chỉ có đủ tiền học phí sáu tháng và chi phí sinh hoạt trong vòng ba tháng. Sống như thế nào và tiếp tục đóng tiền học ra làm sao là một câu hỏi mà đôi khi tôi phải giả vờ không nhớ để trấn tĩnh bản thân mình.

Ngay vừa bước chân lên đất Úc tôi đã bắt đầu tìm việc làm. Bạn bè bảo tôi “điên” bởi ai mà đi thuê một du học sinh vừa chân ướt chân ráo từ một nước châu á đến. Tôi mỉm cười mặc kệ. May sao một tháng sau tôi có được việc làm. Vậy là ổn! Cả năm đầu tiên chỉ làm dọn phòng khách sạn, bồi bàn, bartender...

Ngày đầu tiên thật háo hức nhưng mấy ngày sau thì chỉ muốn về nước ngay. Xung quanh chẳng có một người thân hay bạn bè, áp lực về chi phí lại quá lớn. Tiền VN lúc đó chỉ có giá trị khoảng 1/7 tiền Úc nên có cảm giác như mình không có tiền trong tay, mọi thói quen mua sắm, tiêu xài đều phải từ bỏ một cách không điều kiện.

Từ một giám đốc tiếp thị ở VN, tôi đã làm lại từ đầu trên đất khách quê người với một số tiền ít ỏi. Đó chính là quyết định rủi ro nhất và cũng chín chắn nhất dẫn đến bước ngoặt trong cuộc sống và sự nghiệp của tôi. Chính những năm tháng phải đi học tám tiếng và đi làm tám tiếng đã rèn luyện cho tôi một nghị lực và tính thích nghi cao độ để làm lại từ đầu. Những lúc mệt mỏi nhất, từ “thành công” trở thành một từ lúc nào cũng xuất hiện trong kho từ điển của tôi...

Học để “master” chính con người mình

Hình như tôi là một cô gái quá bướng bỉnh. Hồi ở VN, tốt nghiệp ngoại ngữ Anh Trường ĐH Tổng hợp, được giữ lại trường làm giảng viên, được một thời gian thấy mình còn “thiếu trước hụt sau” nhiều kiến thức thực tế quá nên bỏ đi làm cho kinh nghiệm dày lên. Làm từ nhân viên tiếp thị quèn cho tới lúc là giám đốc tiếp thị thì... bỏ đi lần nữa!

Và lần này, tôi bắt đầu bằng khóa học advanced diploma ngành quản trị du lịch và khách sạn tại William Blue International Hotel Management School ở North Sydney. Đây là một trong hai trường đào tạo ngành quản trị khách sạn nổi tiếng nhất của Úc. Sau khóa học hai năm, vẫn cảm thấy mình chưa khai thác hết năng lực của bản thân. Coi kỹ lại thì chuyên ngành khách sạn vẫn còn quá hẹp, tôi quyết định tiếp tục học lấy bằng MBA tại Trường đại học Central Queensland trong vòng bốn năm.

Hệ thống giáo dục tại Úc bắt buộc một sinh viên phải tự lực cánh sinh trong suốt quá trình học tập, từ việc chuẩn bị đọc bài trước khi lên lớp cho đến làm vô số bài viết thu hoạch hay luận án trong mỗi môn và từng khóa học. Chúng tôi được chuẩn bị một cơ sở rất vững để có khả năng phân tích, giải quyết vấn đề và bảo vệ quan điểm trong bất kỳ hoàn cảnh, môi trường làm việc nào.

Đến năm thứ hai sang Úc, tôi bắt đầu những công việc “sang” hơn một chút như đặt phòng khách sạn, tiếp tân khách sạn. Khi bắt đầu khóa MBA cũng là lúc tôi được nhận vào làm full-time tại Flairview - một tập đoàn viễn thông, địa ốc, du lịch khá lớn của Úc.

Trong vòng một năm tôi được thăng chức và tăng lương từ nhân viên giao dịch khách hàng lên nhân viên phòng phát triển kinh doanh và cuối cùng là giám đốc phát triển kinh doanh phụ trách khu vực châu Á. Tôi là người VN duy nhất trong số rất ít nhân viên châu Á của công ty và là nhân viên duy nhất không mang quốc tịch Úc trong tập đoàn này.

Đây là một trong những trường hợp hiếm hoi của du học sinh thành công ở nước ngoài vì thậm chí trong cộng đồng VN tại Úc cũng không có nhiều người làm được. Cứ thử tưởng tượng những khó khăn về ngôn ngữ, văn hóa, kinh nghiệm thị trường... là có thể thấy tôi phải trải qua những năm đầu tiên như thế nào. Sau bước ngoặt này, tôi hoàn toàn tự tin để nói rằng: mình có thể sống, làm việc và thành công ở bất kỳ nước nào.

Ngày tốt nghiệp, thầy chủ nhiệm hỏi sinh viên lớp tôi: “Thế các bạn đã đạt được điều gì sau chương trình này?”. Người thì cho rằng mình đã lấy được bằng MBA, người thì cho rằng mình đã học được rất nhiều kiến thức về quản trị... Riêng tôi trả lời: “Em cảm thấy mình đã “master” được chính con người của mình”.

Ấy là tôi nói tới một trải nghiệm: rằng sáu năm qua đã cho tôi sự trải nghiệm nghiêm túc nhất, biết đo lường được tiềm năng bản thân và có thể vận dụng để phát triển tối đa năng lực của mình. Tôi ý thức được rằng mỗi con người chúng ta đều dự trữ trong mình một tiềm lực vô biên và ai biết cách “quản trị” tiềm lực ấy ắt sẽ thành công. Tôi nghĩ đó cũng là lý do mà ngành quản trị nguồn nhân lực ngày càng phát triển trên thế giới.

Đường về nhà

Với vị trí tại Úc lúc đó, có thể nói cả một sự nghiệp đang mở ra trước mắt tôi. Đời sống vật chất thì thật là thoải mái. Tuy nhiên tôi cảm thấy đã đến lúc người VN chúng ta thay thế được người nước ngoài trong các vị trí quản lý cao cấp.

Cứ nhìn các nước lân cận như Singapore, Philippines... thì thấy, họ không cần “nhập khẩu” người nước ngoài để điều hành công ty lớn, ngay cả công ty đa quốc gia cũng do chính người trong nước quản lý. Nói không phân vân khi quyết định thì cũng không đúng vì tôi biết mình sẽ đánh đổi tất cả sự ổn định và cơ hội đang có với một thử thách mới mà chưa biết sẽ đưa mình về đâu...

Thời gian đầu về nước tôi cảm thấy bị áp lực vì không đạt được những mục tiêu công việc mình đặt ra do quá nhiều điều kiện khách quan. Đường truyền Internet rất chậm, chi phí liên lạc quá cao, phong cách làm việc một số cơ quan rất quan liêu... gây chậm trễ trong công việc cho rất nhiều người liên quan. Nhưng rồi tôi cũng tự tìm cách thoát ra giữa một môi trường đang phát triển...

Công ty bên Úc quyết định mở văn phòng đại diện tại VN, cho tôi tiếp tục công tác phát triển kinh doanh khu vực châu Á. Tôi đã một mình mở văn phòng cho công ty và làm trưởng đại diện trong vòng một năm. Thời gian này, tôi nhận rất nhiều hợp đồng tư vấn về marketing cho các công ty nước ngoài mới vào thị trường VN.

Sau một thời gian nghiên cứu ngành quản trị tại VN, tôi nhận thấy một lỗ hổng quá lớn: toàn bộ nhân sự cao cấp phục vụ tầm "chiến lược" của các công ty quảng cáo quốc tế đều nằm trong tay người nước ngoài. Người Việt chỉ có thể làm từng công đoạn cụ thể cấp thấp và không được quyền quyết định.

Tôi muốn mình có mặt ở lĩnh vực này và nhận lời làm cho XPR Campaigns. Công việc của tôi là phụ trách mảng xây dựng chiến lược tiếp thị và quảng cáo. Thật ra, mục đích cuối cùng là giữ vị trí quản lý cao cấp tại VN hay khu vực cho một công ty tầm cỡ và trở thành nhà đầu tư trong nhiều lĩnh vực.

Một lần trong chuyến giao lưu sinh viên tại Malaysia, một sinh viên Malaysia nói với chúng tôi: “VN phải mất ít nhất 15-20 năm nữa mới có thể được như Malaysia bây giờ". Nỗi ám ảnh này đã đi theo tôi suốt cuộc hành trình khẳng định mình. Tôi làm việc, làm việc và làm việc.

Tôi có quá nhiều công việc phải làm: hoạch định chiến lược, giải quyết những vấn đề cụ thể của công ty, tìm ra một hành trình cho những thương hiệu mà tôi phụ trách. Rồi nữa, công việc ở Hội cựu du học sinh ở Úc với hơn 4.000 thành viên và những sinh hoạt trong các CLB doanh nhân Úc, Anh, Singapore, Việt kiều...

Một công việc khác khá quan trọng với tôi và bạn bè trong ngành quảng cáo, tiếp thị: thành lập CLB Marketing VN (Vietnam Marketing Network). Một trang web đang trong giai đoạn hoàn thành, chúng tôi muốn đó là một nơi để các chuyên gia trong lĩnh vực quảng cáo, xây dựng, quản lý nhãn hiệu, tiếp thị, nghiên cứu thị trường... học tập trao đổi kinh nghiệm và chung tay hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ ở VN cùng phát triển. Có nhiều việc quá không? Tôi cũng không biết nữa.

Khi các vị giáo sư người Nhật muốn cậu học trò VN ở lại tiếp tục nghiên cứu sinh tiến sĩ thì anh lại quyết định quay về. Quay về với một khát vọng: năm năm nữa, tên công ty của chính mình sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán Tokyo!

NGUYỄN VĂN TIẾN HÙNG

(source: http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=124238&ChannelID=89)

Ra đi và mang về... (4)

Người “mở cửa” cây trái miệt vườn

Tiến sĩ Nguyễn Văn Hòa trong phòng thí nghiệm của viện cây ăn quả - N.V.T.H

TT - Ông tiến sĩ sau khi du học “hết trơn sách vở thiên hạ” nay lại trở về xoay quanh việc nghiên cứu ruồi.

Và từ đàn ruồi ấy, anh cho ra những công thức trồng trọt, bón phân, chăm sóc cây ăn quả để “bà con mình yên tâm đem trái cây ra chợ quốc tế bán bán buôn buôn”. Nguyễn Văn Hòa lớn lên từ đồng ruộng, anh hiểu người nông dân cần gì...

Từ con ruồi tới cái... toa lét

Thời gian này, lần đầu tiên những người nông dân ở thôn Đằng Thành (Mương Mán, Hàm Thuận Nam, Bình Thuận) được nghe nói tới một thứ tiêu chuẩn châu Âu mang tên GAP dành riêng cho trái nhập khẩu vào những nước này. Họ chưng hửng khi thấy có nhiều điều lạ quá so với những gì phải làm khi xuất khẩu trái cây qua Hong Kong, Thái Lan, Trung Quốc, Đài Loan...

Những người nông dân này không hề biết câu chuyện chỉ một cái trứng ruồi trên trái xoài xuất khẩu qua một nước thứ ba cũng có thể là cửa ngõ xuất hiện một loài côn trùng lạ đưa đến việc “cấm cửa” vĩnh viễn các loài trái cây của một quốc gia.

Ngoài cái trứng ruồi, còn hàng trăm thứ hiểm họa tiềm ẩn từ tập quán trồng trọt, thu hoạch... lâu đời và lạc hậu của người làm vườn. Nó có thể nằm đâu đó trong đống phân chuồng xử lý chưa đến nơi đến chốn hay trong một hành vi tự phát tùy tiện: thấy có sâu thì cứ phun vãi thuốc trừ sâu độc hại bất kể trái đã tới ngày thu hoạch.

Những người nông dân Đằng Thành được khuyến cáo rằng nếu vườn thanh long của cả thôn này muốn xuất khẩu sang châu Âu thì mọi người phải chấp nhận một qui trình sản xuất hoàn toàn khép kín từ khâu đầu đến khâu cuối cùng.

Phải thay đổi toàn bộ quá trình xử lý phân chuồng, vệ sinh thực phẩm, hạn chế dùng thuốc trừ sâu bằng việc áp dụng phương pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp... Tất cả các khâu phải được cộng đồng theo dõi chặt chẽ và qui trình này sẽ được các chuyên gia thuê từ nước ngoài giám sát. Việc thành bại sẽ phụ thuộc những yếu tố đôi khi rất nhỏ. Chỉ cần một chuyên gia vờ như vô tình hỏi nhỏ: “Đi toa lét chỗ nào?”. Nông dân mà đưa họ cái cuốc biểu cầm ra sau vườn thì cầm chắc mô hình bị phá sản bởi thiếu cái nhà... vệ sinh.

“Thôi, khó quá, mà tại sao mình phải làm?”. Bà con hỏi Hòa như vậy và anh phải bắt đầu từ những điều cơ bản nhất. Rằng mai mốt cây trái trong vườn mình sẽ đi ra thế giới lớn hơn, bán được cao giá gấp nhiều lần.

“Nhưng ở đó người ta sẽ đòi hỏi nó phải sạch tới từng centimet vuông ở ngoài vỏ trái. Không như bây giờ mình xuất cái gì qua Trung Quốc cũng được, xuất nhiều họ lấy nhiều rồi, tới ngày họ không thích lấy nữa, trái cây đem đổ ngoài đường. Người châu Âu khó tính nhhưng nếu tạo được uy tín, trái cây mình “ăn chắc mặc bền” và giá cao hơn là cái chắc...”.

Và anh vạch ra ngay cái tương lai đáng sợ: “Mai mốt gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, Nhà nước mình phải mở cửa cho trái cây xứ khác đổ về, nó ngon hơn, sạch hơn thì bà con có nước khoanh tay chịu chết mà thôi. Giờ mình xúm vô, mỗi người coi sóc cho nhau, vườn này nhắc nhở vườn nọ phải theo GAP thì mới hổng bị muộn màng...”.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Hòa nói với họ mà cũng là nói với chính mình. Đây là mô hình “Hợp tác xã thanh long sạch” lần đầu tiên được hình thành ở Bình Thuận. Khác với các HTX khác, mô hình này tuân thủ theo tiêu chuẩn GAP của châu Âu từ khâu chọn giống, qui trình chăm bón, tiêu chuẩn dinh dưỡng... và sẽ được các chuyên gia nước ngoài giám sát trước khi “đóng dấu xác nhận đạt chuẩn”. HTX thanh long này sẽ là một chuẩn mực phải thành công trước 2010 để nhân rộng ra sau đó, bởi chậm một tí miệt vườn sẽ “thúc thủ”, nói theo ngôn ngữ giới trẻ bây giờ “chết là chắc rồi!”.

Trong một phòng thí nghiệm của Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam có hai đàn ruồi được các chuyên gia từ New Zealand sang nuôi. Nhiệm vụ của chúng là đẻ trứng vào những trái xoài để các nhà khoa học nghiên cứu cách tiêu diệt ấu trùng và mở đường cho trái cây miền Nam xuất khẩu sang những thị trường khó tính nhất trên thế giới.

Đó là một trong nhiều dự án mà tiến sĩ Nguyễn Văn Hòa và đồng nghiệp đang thầm lặng thực hiện tại nơi này. Năm 2003, anh rời trung tâm nghiên cứu về nông nghiệp lớn nhất Nam Á (Viện Nghiên cứu nông nghiệp toàn Ấn) để trở về với công việc “hiện đại hóa” miệt vườn.

“Tôi hiểu nông dân cần gì”

Thời gian của Hòa bây giờ là buổi sáng có thể tới một điểm thuyết trình nào đó để giới thiệu cơ chế của sản phẩm sofri protein, một chế phẩm diệt ruồi đục trái mà những nhà khoa học của Viện Nghiên cứu cây ăn quả đã lao tâm khổ tứ làm ra được. Anh sẽ tới chỉ cho bà con coi hình dạng con ruồi đục trái, nói rõ qui trình sống của nó ra sao, tại sao mình chỉ xịt thuốc có chừng nửa mét vuông trong khu vườn thì cả đám ruồi phải bị tiêu diệt...

Rồi Hòa hướng dẫn nông dân làm thí điểm phun xịt trong vườn để tự họ rút kinh nghiệm và nhân rộng ra với nhau. Buổi trưa, anh có thể ôm máy điện thoại hàng tiếng đồng hồ chỉ để trả lời một nông dân về bệnh thán thư trên cây thanh long, bệnh “chổi rồng” trên cây nhãn...

Buổi tối, tiến sĩ Hòa lại ngồi trước ống kính truyền hình trực tiếp thông báo tình hình sâu bệnh, những diễn tiến thuận lợi, bất lợi của thời tiết, môi trường ảnh hưởng tới sâu bệnh hoặc từng loại sâu bệnh trong khu vườn nhà nông...

Cứ vậy, không biết từ lúc nào đã biến mất những e dè của hồi mới quảy giỏ từ New Delhi trở về, không biết mình sẽ thích nghi như thế nào với thời gian sáu năm đi học bên ngoài. Nhưng rồi công việc cứ cuốn lấy anh, anh thì cứ lao vào, tự dưng thấy nó trôi chảy lúc nào không biết nữa.

“Ba má tôi là nông dân ở vùng cam sành Tam Bình, Vĩnh Long. Tôi sinh ra, lớn lên trên mảnh ruộng vườn cây. Hồi đó tôi đi học sớm, 16 tuổi đã thi đại học. Năm học lớp 11, trong nhà một đứa cháu bị bệnh sốt xuất huyết nhưng ở vùng sâu nên không cứu kịp. Gửi gắm của ba má tôi là đi học ngành y làm bác sĩ giúp đỡ con cháu sau này. Năm đó thi vào ngành y không đủ điểm đậu nhưng tôi lại đủ điểm vào ngành nông nghiệp.

ĐH Cần Thơ gửi giấy triệu tập ngành trồng trọt. Tôi ngần ngừ. Người anh kế khuyên thôi thì đi học ngành gì cũng giúp đỡ quê mình được. Vậy là đi học. Ra trường, tôi xin ở lại Trung tâm Nghiên cứu phát triển hệ thống canh tác (do tiến sĩ Võ Tòng Xuân làm giám đốc). Bắt đầu sưu tập các giống lúa mùa, đậu... ở địa phương cho đến năm 1994 Trung tâm Nghiên cứu cây ăn quả được thành lập. Đó là một lĩnh vực hoàn toàn mới và tôi về đó chứ chưa hình dung rõ mình sẽ làm được gì” - Hòa thong thả kể về con đường của mình.

Cơ hội đến khi năm 1997 anh nhận được học bổng đi học thạc sĩ về bệnh hại cây trồng. Hai năm sau, Hòa đủ điểm để lại làm nghiên cứu sinh tiến sĩ và bảo vệ thành công đề tài tốt nghiệp về virus bệnh học - những thứ “hàng xa xỉ” rất cần cho vùng cây ăn trái quê nhà ở thời hội nhập.

Rất nhiều cái cần, nhiều cái thuộc chiều sâu nghiên cứu nhưng sự lựa chọn của thực tế lúc này là những nghiên cứu mang tính ứng dụng và chương trình đầu tiên mà Hòa cùng những đồng nghiệp mình làm là đưa ra những mô hình cho chương trình nghiên cứu phòng trừ dịch hại tổng hợp. Rồi những câu hỏi của người nông dân, những chương trình trực tiếp trên sóng phát thanh - truyền hình... Tất cả đang là những công việc hằng ngày của một tiến sĩ nghề cây ăn quả.

“Tôi từng là nông dân, lớn lên trên đồng ruộng. Tôi hiểu người nông dân cần gì. Những câu hỏi của họ là bắt buộc phải nhiệt tình trả lời, không có cách nào khác để anh thoái thác. Cái gì biết bảo biết, cái gì chưa biết bảo mình sẽ nghiên cứu lại.

Ở Ấn Độ, những nghiên cứu về nông nghiệp gần như đã hoàn chỉnh và tầm mức những nghiên cứu của họ sánh ngang với bất kỳ nước phát triển nào, nhưng hình như xã hội Ấn có những đặc thù khác khiến những nghiên cứu ấy chưa đi vào đời sống sâu lắm. Còn ở VN, những nghiên cứu sẽ mang tính ứng dụng thực tế nhiều hơn.

Tôi học ngành bệnh học với đề tài nghiên cứu sâu về virus trong bệnh học cây trồng nhưng cái học đó khó thực hiện trong môi trường VN hiện tại. Trong khi chờ đợi thiết bị kỹ thuật, cách tốt nhất là lăn xả vô vườn ruộng thực hiện các đề tài về sâu bệnh, đến với người nông dân để nghe họ nói và chuẩn bị mọi tư thế, khi có một căn bệnh lạ ở một vùng trái cây đang độ chín hay ra hoa, mình có thể nhào tới nghiên cứu tại chỗ để hạn chế hậu quả thất thu cho miệt vườn... Vậy là sướng rồi”.

* * *

Hỏi nhờ một đường truyền gửi mail về cơ quan, tôi mới biết thêm một chi tiết: thì ra tại một viện nghiên cứu khoa học lớn như thế này, người ta vẫn chưa có đường truyền ADSL. Mà đâu chỉ có ADSL, hàng loạt “đường truyền” khác từ lương bổng cho tới đời sống, có quá nhiều thứ hoặc trì níu người ta xuống hoặc kéo người ta đi.

Thật ra trong nỗi lo “trở về” của Hòa có lởn vởn câu chuyện của những đồng nghiệp ở viện này viện nọ của đồng bằng đã về và lại ra đi. Ngay tại vị trí mà anh ngồi, trước khi về một tháng, có một đồng nghiệp đã bỏ trống trong sự hụt hẫng của viện trưởng Nguyễn Văn Châu.

Nhưng biết làm sao, mảnh vườn của thời đại toàn cầu và những người nông dân cần cù vẫn đang trông chờ vào những người như anh.

NGUYỄN VĂN TIẾN HÙNG

(source: http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=124014&ChannelID=89)

Ra đi và mang về... (3)

Tâm tình Võ Tòng Xuân

Giáo sư - tiến sĩ Võ Tòng Xuân tại Đại học An Giang - Ảnh: N.V.T.H.
Tuoi Tre Online - Tiến sĩ Võ Tòng Xuân xuất hiện trong loạt bài này bởi ông là đại diện của một thời du học sinh trở về quê hương giữa cảnh chiến tranh và ở lại lo “chạy gạo” của thời hòa bình. Còn hiện giờ, Trường ĐH An Giang của ông đang là một "cánh cửa" mở cho những người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết.

Trước sau ông chỉ nói đi nói lại một điều: “Nếu trái tim nóng mà gặp cục nước đá sẽ tan nát hết. Phải biết cách sử dụng những tấm lòng của bao bạn trẻ...”.

"Nhân mình ra" cho đất nước mình

Năm 1971, tôi đang giảng dạy ở Viện Lúa quốc tế tại Philippines. Nhiều anh em ở miền Nam sang học. Lúc đó viện trưởng Đại học Cần Thơ là ông Nguyễn Duy Xuân viết thư sang cho tôi: “ĐBSCL không có ai chuyên về lúa cả, nếu anh về làm ở đại học chắc sẽ giúp ích được nhiều hơn. Chiến tranh rồi sẽ có ngày hòa bình, cái ăn sẽ luôn luôn đi đầu, rất cần những người như anh...”.

Bà xã tôi lo: “Đang chiến tranh, về nước họ bắt đi quân dịch thì mai một cuộc đời!”. Một lần nữa, viện trưởng viết thư sang hứa sẽ can thiệp hoãn quân dịch. Thú thật, tôi không tin lời hứa đó nhưng an ủi vợ mình: “Về thì mới biết được, em à!”. Tâm trạng của những người ở xa đất nước là nhiều lúc thấy bơ vơ, nghĩ tới ông bà, cha mẹ tự dưng có một cảm giác không thể tả được, giống như mình mắc một cái tội vậy!

Ngày 9-6-1971, chúng tôi gói ghém hành lý, tạm biệt Viện Lúa quốc tế để về VN làm công việc mà tôi ý thức rõ ràng: cố gắng để “nhân mình ra” cho đất nước.

Ông Phúc Tiến, giám đốc Trung tâm du học Hợp Điểm (TP.HCM):

“Trong lịch sử du học của châu Á thì Nhật Bản từng có thời hạn chế việc du học ở nước ngoài, chỉ khi nhà nước có yêu cầu mới cử người đi học. Ở miền Nam nước ta, chuyện ấy xảy ra trong thời Ngô Đình Diệm.

Ở Trung Quốc, sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989, nhà nước tạo điều kiện cho cả trăm ngàn sinh viên đi du học. Lớp sinh viên đó sau này đã tạo thành một “làn sóng du học sinh trở về”. Chính họ đã mang sở học từ các quốc gia hiện đại về xây dựng đất nước.

VN thời mở cửa, chúng ta bắt đầu cử người đi học các nước tư bản từ những năm 1990. Cột mốc đáng chú ý nhất là thời điểm tháng 1-2000: cánh cửa thật sự mở sau một nghị định của Chính phủ qui định thông thoáng hơn trong xuất nhập cảnh. Du học tự túc bùng nổ.

Tôi nghĩ tới giờ này đã là thời điểm tốt nhất để trở về. Đó là các yếu tố thuận: kinh tế phát triển, bang giao Việt - Mỹ và nhiều quốc gia đã tốt hơn nhiều. Không nên quá đặt nặng vấn đề đi hay ở mà hãy chú ý đến những “tài sản” mà du học sinh mang về cho Tổ quốc từ hành trình du học của họ...”.

Cần Thơ thời đó tuy là trung tâm của đồng bằng nhưng cũng ít có người giỏi về lắm. Một mình tôi dạy bảy môn và hướng dẫn luận văn tốt nghiệp. Riêng chỉ hai năm 1972 - 1974 tôi đã hướng dẫn được 25 SV làm luận văn tốt nghiệp. Lúc đó trong nước không có người làm ngành này, chỉ có một mình làm theo ý mình. Mình mà nhân ra được người nào, mừng người đó.

Lương chính thức chỉ có 21.000 đồng, giá một tô phở thời ấy là 35 đồng/tô. Nghĩa là không thể đủ để nuôi gia đình. Phải ở nhờ nhà ba tôi. Nhà nghèo, ông già cũng ở nhờ ở đậu mà thôi. Tôi nghĩ cách đi làm thêm.

Từ Viện Lúa về, tôi quen nhiều công ty hóa chất, có Công ty Ciba - Geigy muốn mở đại lý bán thuốc trừ cỏ ở VN, họ nhờ tôi làm môi giới và lo phần VN. Công ty này mướn cho tôi một cái nhà tại Sài Gòn để ở, lúc này mới thoát khỏi cảnh ở đậu chui rúc. Thời gian của tôi lúc này coi như kín cả tuần: 4g sáng thứ hai phải chạy xe về Cần Thơ để 8g đứng lớp, làm việc và tối đó ngủ lại trường.

Ngày thứ ba, 5g chiều chạy lên Sài Gòn để làm việc cả ngày thứ tư cho công ty. Sáng thứ năm về Cần Thơ, chiều thứ sáu lên Sài Gòn. Ngày thứ bảy làm việc cho công ty rồi ngày chủ nhật lại đi các vùng thử nghiệm thuốc trừ sâu mà tiếp xúc nông dân. Mức lương tôi lúc đó là 125.000 đồng. Tôi nghiệm ra một điều: ở bất cứ đâu, nơi nào, chỉ cần có kiến thức và sức khỏe là người ta có thể làm nên mọi việc.

Dành một chỗ cho người trở về...

Suy từ kinh nghiệm bản thân, tôi hiểu những người trẻ tuổi từ nước ngoài trở về có rất nhiều nhiệt huyết. Bởi chỉ cần đi ra một chút, ai thức thời sẽ thấy đất nước mình đi chậm hơn thiên hạ và người “có lòng” sẽ thấy mình phải làm một điều gì đó với một trái tim nóng bỏng. Nhưng nếu trái tim nóng ấy mà gặp cục nước đá, sẽ tan nát hết. Phải biết cách sử dụng những tấm lòng của bao bạn trẻ.

Trường hợp của Minh và Quỳnh, tôi gặp các em rất tình cờ trong dịp tết. Hai em thú thật chưa chọn công việc ở đâu. Quỳnh nói với tôi về một mô hình ngôi trường mẫu giáo quốc tế cho đồng bằng. Minh có kế hoạch về lớp học điện tử, về thư viện điện tử và những ứng dụng công nghệ thông tin cho trường đại học.

Với tôi, tất cả những điều ấy đều có thể làm từ Trường đại học An Giang. Cánh cửa phải mở và bắt đầu từ chính nguồn lực này. Quỳnh thì tôi biết từ hồi còn là sinh viên, cô rất giỏi tiếng Anh; Minh là một người đọc và nắm thông tin rất nhanh, có thể góp phần rất lớn từ lĩnh vực công nghệ thông tin mà trường tôi đang thiếu.

“Tôi đi nhiều nước, thấy anh em học hành bây giờ thật khó mà đoán được nhiệt tình với đất nước ra sao, bởi họ phải đối diện với một môi trường có lắm xa hoa và nhiều cám dỗ, cơ hội thì nhiều nhưng thử thách cũng không ít lắm.

Một số lại lo lắng: không biết về sẽ đóng góp được gì. Tiếc là có một số phụ huynh cũng không muốn con mình trở về. Gia đình là quan trọng lắm, phải hun đúc chí hướng ngay từ gia đình và cha mẹ phải nói được với con cái mình về tiền đồ dân tộc, về nguồn lực đất nước.

Ở ĐH Cần Thơ hồi xưa, chúng tôi chọn mặt gửi vàng và hầu hết 100% các em đi đều trở về. Bởi mình đã thấy được chí hướng của họ trong quá trình học tập tại trường. Có những trường hợp xin được học bổng nhưng lý lịch các em gặp khó.

Tôi đích thân lên gặp giám đốc công an tỉnh bảo lãnh: “Cậu này tâm tư nguyện vọng tôi biết hết, mấy ông ở xã chỉ biết ba nó, chú nó nhưng tôi thì biết nó. Anh cho nó đi đi”. Giám đốc công an gật đầu: “Tôi tin anh, cho nó đi thôi”. Cứ như vậy, các em đi rồi về toàn bộ. ĐH An Giang từ năm 2001 cũng đã gửi được 17 em đi học. Tôi đã chọn và các em sẽ trở về...”.

TS Võ Tòng Xuân

Chúng tôi mời các em về làm việc. Lúc đầu mình xuất tiền túi cho các dự án nhưng phải nói của nhà tài trợ để các em yên tâm, rồi cũng vận động được Dupont tài trợ cho dự án lớp học điện tử của Minh. Cậu ấy làm hiệu quả tới mức Đại học An Giang trở thành một ngoại lệ để Dupont tài trợ liên tiếp hai năm trong các chương trình của mình. Và mới đây nhất, Minh đã lấy được tài trợ của Điện đạm Phú Mỹ với hệ thống thư viện wireless (sử dụng laptop với mạng không dây trong khuôn viên) và một phòng thí nghiệm về phân bón cho trường.

Rồi tôi đi Học viện Công nghệ châu Á (AIT), một đồng nghiệp giới thiệu: có một đứa rất giỏi đang học môi trường. Tôi tìm ra, đó là Khánh, một sinh viên vốn từ Đại học Bách khoa sang, quê lại ở An Giang, vậy là rủ em về. Khánh mạnh về môi trường, đặc biệt là môi trường nước. Tôi chạy vạy tìm dự án cho em làm.

Có một trường đại học Nhật đang có chương trình nối kết các nước trong khu vực Mekong, tôi vận động để An Giang gia nhập và giao cho Khánh làm. Cậu ấy vừa làm vừa học tiếp với người Nhật và giờ thì vừa hoàn thành một dự án về cải tạo môi trường nước vùng hạ lưu Mekong.

Tôi nghĩ trong bất cứ môi trường nào cũng phải tuyệt đối mở rộng tầm tay với các em. Phải tìm một chỗ trong cơ quan của mình để cho những tài năng có thể phát triển thành tài năng đất nước, không nên nhìn họ như những người sẽ giỏi hơn và chiếm vị trí của mình.

Tôi cũng đang liên hệ với một cô đang học master một ngành lạ, một chuyên ngành rất hẹp của xác suất thống kê. Đó là cô bé con gái của một cán bộ ngành thuế ở An Giang, học rất giỏi và giành học bổng đi Singapore từ năm học lớp 10 rồi tự tìm học bổng đi Mỹ và sang cả Anh để học đại học và master. Em cứ điện về hỏi tôi kiếm giùm em một chỗ để về làm.

Tôi đã kiếm cho em một chỗ trong bảo hiểm bởi bảo hiểm rất cần ngành mà em học để dự báo thiên tai. ở vùng sông nước mình em có thể xác định được tần số bão lụt, em sẽ giúp tính để người nông dân có thể mua bảo hiểm sinh mạng, bảo hiểm nông nghiệp sao cho công ty bảo hiểm không bị lỗ mà nông dân mình cũng không bị “cắt cổ” nữa.

Đó, tất cả những người tài như vậy có đi ra rồi mới thấy đau lòng tại sao dân mình cần cù, thông minh như vậy mà nghèo. Thấy rồi mới tự ái, tự ái thì họ sẽ làm mọi thứ cho đất nước, dân tộc mình thôi. Hãy dành một chỗ khi họ trở về...

Rời trung tâm nghiên cứu nông nghiệp lớn nhất Nam Á, anh trở về với công việc hiện đại hóa miệt vườn. Và ông tiến sĩ bắt đầu công việc với hai đàn ruồi có nhiệm vụ đẻ trứng vào những trái xoài...

NGUYỄN VĂN TIẾN HÙNG

_____________________

Ý kiến bạn đọc

- Đọc được những dòng tâm huyết của thầy Xuân, lòng con có cảm xúc khó tả. Ba mẹ con cũng là những sinh viên được sự hướng dẫn tận tình của thầy trong những năm tháng đất nước chuyển mình. Về quê hương là tâm huyết của chúng con, những người bạn của con cũng vậy.

Dân An Giang ở xa quê nhiều lắm, đi học xa quê mà lòng vẫn hướng về quê hương. Tụi con đang học ở SungKyunKwan University, đông lắm, Bắc-Trung- Nam gần 70 anh chị em, không biết sau 5 năm, tụi con sẽ được là những gì. Nhưng nếu có thể, tụi con vẫn muốn về. Con hy vọng với kinh nghiệm của thế hệ trước, sức trẻ của thế hệ sau - chúng ta sẽ dần dần xây dựng - tiếp thu nền công nghệ mới. Để dân VN khi sang nước ngòai tự hào rằng:" Chúng tôi đến từ một đất nước phát triển và giàu có". Con chúc thầy nhiều sức khỏe để dìu dắt những thế hệ tiếp theo. Con xin chào thầy.

echconkorea@yahoo.com

(source: http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=123864&ChannelID=89)